Thứ Sáu tuần 5 Phục Sinh

BÀI ĐỌC I: Cv 15, 22-31
“Thánh Thần và chúng tôi xét rằng không nên buộc thêm cho anh em gánh nặng nào khác”.
Bài trích sách Tông đồ Công vụ.
Trong những ngày ấy, các Tông đồ, kỳ lão cùng toàn thể Hội Thánh, chấp thuận chọn ít người trong các ngài, và sai đi Antiôkia với Phaolô và Barnaba: đó là Giuđa, gọi là Barsaba, và Sila, những vị có uy thế giữa anh em.
Các ngài nhờ tay hai ông chuyển bức thư viết như sau: “Anh em Tông đồ và kỳ lão chúng tôi kính chào các anh em thuộc dân ngoại ở Antiôkia, Syria và Cilicia. Chúng tôi nghe tin rằng có mấy người trong chúng tôi đã đến nói những lời gây hoang mang và làm cho tâm hồn anh em xao xuyến, chúng tôi không uỷ quyền cho họ, vì thế chúng tôi họp lại, đồng ý chọn một ít người và sai đến anh em làm một với Barnaba và Phaolô, những anh em yêu quý của chúng tôi, tức là những người đã liều mạng sống mình vì danh Ðức Giêsu, Chúa chúng tôi.
Vậy chúng tôi đã sai Giuđa và Sila đến nói miệng với anh em cũng chính những lời này: Thánh Thần và chúng tôi xét rằng không nên đặt thêm cho anh em gánh nặng nào khác ngoài mấy điều cần kíp này là anh em hãy kiêng đồ cúng thần, huyết, thịt thú chết ngạt và gian dâm; giữ mình khỏi các điều đó, là anh em làm phải. Chúc anh em vạn an”.
Các ngài giã từ và đi xuống Antiôkia, triệu tập dân chúng lại và trao cho họ bức thư. Ðọc thư xong, họ vui mừng vì được an ủi.
Ðó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 56, 8-9. 10-12
Ðáp: Lạy Chúa, con sẽ ngợi khen Chúa giữa chư dân (c. 10a).
1) Lòng con bền vững, lạy Chúa, lòng con bền vững; con sẽ hát xướng, con sẽ đàn ca. Hãy thức dậy, linh hồn tôi ơi, hãy thức dậy, hỡi đàn sắt với đàn cầm, tôi sẽ làm cho bình minh thức giấc.
2) Lạy Chúa, con sẽ ngợi khen Chúa giữa chư dân; con sẽ hát mừng Ngài trong các nước: vì đức từ bi Chúa cao tới cõi trời, và lòng trung tín Ngài chạm ngàn mây. Lạy Chúa, xin Ngài hiện ra cao cả trên trời, xin tỏ vinh quang Ngài trên toàn cõi đất!
ALLELUIA: Mt 28, 19 và 20
All. All. – Các con hãy đi giảng dạy muôn dân: Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế. – All.
PHÚC ÂM: Ga 15, 12-17
“Ðây là lệnh truyền của Thầy: Các con hãy yêu mến nhau”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Ðây là lệnh truyền của Thầy: Các con hãy yêu mến nhau, như Thầy đã yêu mến các con.
Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người thí mạng vì bạn hữu mình.
Các con là bạn hữu của Thầy, nếu các con thi hành những điều Thầy truyền. Thầy không còn gọi các con là tôi tớ, vì tôi tớ không biết việc chủ làm; Thầy gọi các con là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy đã nghe biết nơi Cha Thầy, thì Thầy đã cho các con biết.
Không phải các con đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn các con, và đã cắt đặt, để các con đi, và mang lại hoa trái, và để hoa trái các con tồn tại, để những gì các con xin Cha nhân danh Thầy, Người sẽ ban cho các con. Thầy truyền cho các con điều này là: các con hãy yêu mến nhau”.
Đó là lời Chúa.
Suy niệm 1: Yêu thương nhau như Thầy
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Tôn giáo nào cũng dạy người ta phải yêu nhau.
Từ bi hỷ xả của Phật giáo hay tứ hải giai huynh đệ của Khổng giáo.
Đức Giêsu đã coi việc yêu thương nhau là một điều răn, một lệnh truyền.
Nhưng lệnh truyền này có nét mới mẻ:
“Anh em hãy yêu nhau như Thầy đã yêu anh em” (c. 12).
Nét mới mẻ và đáng sợ nằm ở chữ như.
Chính chữ này làm nên nét đặc trưng của Kitô giáo.
Đức Giêsu soi sáng ý nghĩa của chữ như trong câu sau,
khi Ngài nói đến tình yêu của mình đối với các môn đệ:
“Không ai có tình yêu lớn hơn
tình yêu của người hy sinh mạng sống vì bạn hữu mình” (c. 13).
Chết cho các bạn của mình là hành vi lớn nhất của tình yêu.
Thập giá là biểu hiện của tình yêu lớn nhất, tình yêu hiến mạng.
Đức Giêsu đòi buộc các môn đệ phải yêu nhau đến mức đó.
Người Kitô hữu được mời gọi yêu nhau đến mức đó.
“Như Cha đã yêu Thầy thế nào, Thầy cũng yêu anh em như vậy.
Anh em hãy ở lại trong tình yêu của của Thầy” (c. 9).
Có một dòng suối tình yêu chảy tràn từ Cha đến Thầy Giêsu,
và từ Thầy Giêsu đến với các môn đệ.
Ở lại trong tình yêu của Thầy chính là để cho dòng suối đó tiếp tục chảy,
qua tình yêu giữa các môn đệ với nhau.
Dòng suối ngừng chảy sẽ trở nên ao tù nhơ nhớp.
Giữa Thầy Giêsu và các môn đệ không phải chỉ có tình Thầy trò,
mà còn có tình bạn thân thiết (c. 14).
Một đặc tính của tình bạn là dám chia sẻ cho nhau những điều riêng tư.
Thầy Giêsu cho các môn đệ biết việc mình làm,
và biết những gì Thầy đã nghe được từ nơi cung lòng Cha (c. 15).
Như thế đời sống thầm kín giữa Thầy với Cha, Thầy đã vén mở.
Thầy Giêsu sống như một người bạn bên cạnh các môn đệ.
Và Ngài cũng muốn họ sống như những người bạn bên nhau.
Dám sống cho nhau và dám chết cho nhau.
Chỉ khi họ sống với nhau như những người bạn đích thực,
các môn đệ mới thật là bạn của Giêsu (c. 14).
Tình bạn đối với Giêsu khiến ta có tình bạn đối với nhau.
Tình bạn ta có đối với nhau minh chứng về tình bạn ta đang có với Giêsu.
Trong đời thường, chúng ta ít có cơ hội hy sinh mạng sống cho nhau.
Nhưng chúng ta lại có rất nhiều cơ hội hy sinh những điều đáng quý khác,
như thời giờ, tiền bạc, sức khỏe, uy tín, quyền lợi, dự tính, ảnh hưởng…
Những hy sinh này đụng đến cái tôi của ta và làm ta đau nhói.
Mong các Kitô hữu biết yêu nhau để người ta biết chúng ta là ai (Ga 13, 35).
Cầu nguyện:
Lạy Cha, xin cho con ý thức rằng
tấm bánh để dành của con thuộc về người đói,
chiếc áo nằm trong tủ thuộc về người trần trụi,
tiền bạc con cất giấu thuộc về người thiếu thốn.
Lạy Cha, có bao điều con giữ mà chẳng dùng,
có bao điều con lãng phí
bên cạnh những Ladarô túng quẫn,
có bao điều con hưởng lợi
dựa trên nỗi đau của người khác,
có bao điều con định mua sắm dù chẳng có nhu cầu.
Con hiểu rằng nguồn gốc sự bất công
chẳng ở đâu xa.
Nó nằm ngay nơi sự khép kín của lòng con.
Con phải chịu trách nhiệm
về cảnh nghèo trong xã hội.
Lạy Cha chí nhân,
vũ trụ, trái đất và tất cả tài nguyên của nó
là quà tặng Cha cho mọi người có quyền hưởng.
Cha để cho có sự chênh lệch, thiếu hụt,
vì Cha muốn chúng con san sẻ cho nhau.
Thế giới còn nhiều người đói nghèo
là vì chúng con giữ quá điều cần giữ.
Xin dạy chúng con biết cách đầu tư làm giàu,
nhờ sống chia sẻ yêu thương. Amen.
Suy niệm 2: Như Thầy yêu thương
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Đơn sơ, rõ ràng và cụ thể. Đó là Lời Chúa. Là Luật Chúa. Là Luật Mới: Yêu Thương. Đơn sơ vì vắn gọn và tập trung vào một điểm. Rõ ràng vì ai cũng hiểu được và làm được. Cụ thể vì chính Chúa đã thực hành trước khi truyền dạy cho ta. Yêu thương nhưng phải yêu thương như Chúa yêu thương. Có 3 điểm.
Chúa nâng ta lên. “Thầy gọi anh em là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha Thầy, Thầy đã cho anh em biết”. Tôi tớ được nâng lên ngang hàng với chủ nhân. Môn sinh được nâng lên thành bạn hữu của Thầy. Ở mức cao nhất. Vì được cùng Thầy chia sẻ tâm tư tình cảm. Kể cả chương trình hành động.
Chúa chết vì ta. “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình”. Chúa đã làm như vậy.
Chúa tuyển chọn và sai ta đi. “Không phải anh em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em, và cắt cử anh em để anh em ra đi, sinh được hoa trái”. Đó là tình bạn ở mức độ cao. Tin tưởng. Đồng hoá. Coi người bạn là đại diện cho mình. Cũng như Chúa Cha và Chúa Con là một.
Thật đáng mừng. Vì các môn đệ và các tín hữu đầu tiên đã thực hành Giới Luật Yêu Thương của Chúa. Đã coi nhau là bạn hữu. Kể cả người dân ngoại. “Thánh Thần và chúng tôi đã quyết định không đặt lên vai anh em một gánh nặng nào khác ngoài những điều cần thiết”. Đã hi sinh tính mạng cho nhau. “Ông Ba-na-ba và ông Phao-lô, những người đã cống hiến cuộc đời vì danh Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta”. Vì anh em mà chấp nhận hiểm nguy, kể cả hi sinh tính mạng. Đã tin tưởng, cắt đặt và sai đi. Cộng đoàn đặt tay sai Ba-na-ba và Phao-lô đi. “Vì thế, chúng tôi đã đồng tâm nhát trí quyết định chọn một số đại biểu, và phái họ đến với anh em”.
Các ngài đã thực hành Giới Răn Mới của Chúa. Vì thế cộng đoàn tràn đầy niềm vui: “họ vui mừng vì lời khích lệ đó”. Ta hãy Yêu Thương Như Chúa. Sẽ được niềm vui. Và đem niềm vui cho mọi người.
Suy niệm: 3 (Giáo Phận Phú Cường).
TÔI CHỌN CHÚA HAY CHÚA CHỌN TÔI?
“Không phải anh em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em”
—/—
Khi được hỏi: “Ơn gọi là gì”, chúng ta sẽ trả lời thế nào?
Đôi khi chúng ta nghĩ về ơn gọi theo nghĩa rất hạn hẹp. Thế nên, chúng ta chỉ hình dung ra 4 ơn gọi cơ bản: linh mục, tu sĩ, hôn nhân và độc thân. Từ 4 ơn gọi cơ bản này, chúng ta bắt đầu chọn cho mình một cái phù hợp nhất theo suy nghĩ của mình hoặc của cha mẹ mình. Sau khi đã chọn rồi thì chúng ta quyết “dấn thân” theo ơn gọi đó. Rồi đến một ngày không “kham nổi” thì chúng ta nói rằng mình đã “chọn sai” ơn gọi này.
Cái sai lầm không phải do ơn gọi, mà là mình “hiểu sai hay hiểu ngược” về ơn gọi. Nhiều khi mình hay nói ngược: Tôi đi theo Chúa, anh ấy đã chọn và đi theo Chúa.
Vậy, Chúa Giêsu nói gì về ơn gọi?
Bản văn Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã cho chúng ta thấy rằng ơn gọi không phải như vậy: “Không phải anh em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em, và cắt cử anh em để anh em ra đi”. Như thế, không phải chúng ta đã chọn Chúa, nhưng vì ân sủng và tình thương, Chúa đã kêu gọi và chọn chúng ta. Ơn gọi là như thế!
Cái nguy hiểm của việc hiểu ngược này là gì? Đó là, vì chúng ta suy nghĩ ngược, và cho rằng mình chọn Chúa trước chứ không phải Chúa chọn mình trước. Cho nên, chúng ta sẽ đặt ra cho ơn gọi của mình câu hỏi rằng: “Tôi mong đợi gì ở ơn gọi này?” Chúng ta sẽ có những tính toán và dễ đi vào con đường của riêng mình: “Tôi chọn cái gì? Tôi theo đuổi mục tiêu nào?”. Tôi chọn chứ không phải Chúa chọn cho tôi; tôi là chủ thể trong việc chọn lựa này. Điều đó dẫn đến việc: nếu ở trong đời sống ơn gọi tu trì thì tôi sẽ chọn chức giám mục hay linh mục, chứ dại gì chọn làm một ông thầy quèn; tôi chọn xứ lớn chứ dại gì chọn xứ nghèo nơi vùng hẻo lánh; tôi thích làm công việc này chứ không thích làm công việc kia; còn nếu ở trong đời sống ơn gọi gia đình thì tôi sẽ chọn anh chồng hay cô vợ đẹp và giàu sang chứ dại gì chọn “một túp lều tranh 2 trái tim vàng”, và khi quyết định tiến tới hôn nhân, tôi sẽ suy nghĩ: “Tôi mong đợi gì ở gia đình giàu sang của cô vợ này hay anh chồng kia?”. Vì thế, trong việc phân định ơn gọi của chúng ta, nếu bị đảo ngược chủ thể: “Tôi chọn Chúa, hay Chúa chọn tôi” thì sẽ dẫn đến các mục tiêu khác nhau. Nếu tôi là chủ thể của việc chọn lựa thì Chúa sẽ trở thành bàn đạp để tôi tìm kiếm địa vị trong Giáo Hội hơn là việc tìm kiếm Chúa cho đời sống của tôi. Nếu Chúa là chủ thể của việc chọn lựa thì chúng ta sẽ để Chúa hành động và hướng dẫn đời sống của mình; còn việc sẽ là giám mục, linh mục, tu sĩ hay giáo dân; làm chức vụ gì trong Giáo hội hay xã hội, trở thành nổi tiếng hay lu mờ, giàu sang hay nghèo khổ thì đó là “kế hoạch của Chúa”.
Một ví dụ cụ thể trong Kinh Thánh: Chúng ta thấy, anh thanh niên giàu có đến xin theo Chúa, nhưng vì nghĩ rằng anh là người chọn Chúa, là chủ thể của việc chọn này, nên đứng trước đòi hỏi của Chúa, anh không thể đáp lại, vì đối với anh, Chúa không phải là chủ thể của việc chọn lựa này. Chúng ta cũng vậy, đừng “uốn nắn” Chúa, nhưng hãy để Chúa hướng dẫn chúng ta. Bổn phận của chúng ta là đón nhận và cộng tác vào chương trình và kế hoạch của Chúa bằng việc sống trọn vẹn trong ơn gọi đó. Là linh mục hãy sống tròn bổn phận của linh mục, là tu sĩ sống trọn bổn phận tu sĩ, là người có gia đình hãy sống trọn bổn phận của mình cho gia đình và con cái. Khi chúng ta tìm kiếm địa vị, chức tước, sự nổi tiếng, tức là lúc chúng ta muốn làm “chủ thể” trong ơn gọi của mình. Chúng ta hãy để “Chúa phải lớn lên” trong tâm hồn của mình.
Lạy Chúa, chúng con dễ lâm vào con đường tìm kiếm địa vị, danh lợi trong cuộc đời của mình, để rồi chúng con làm “hư” ơn gọi mà Chúa đã chọn và gọi chúng con. Xin Chúa giúp chúng con sống sự khiêm nhường và thánh thiện, để qua đó chúng con có thể ngoan nguỳ và lắng nghe sự hướng dẫn của Chúa trong ơn gọi của mình, ngõ hầu chúng con sống trọn vẹn ơn gọi mà Chúa đã chọn và gọi chúng con. Amen.
Cao Nhất Huy
Suy niệm 4 : “Yêu như Thầy”
Yêu và muốn được yêu chính là nhu cầu của con người. Nếu vắng bóng tình yêu, con người chỉ còn có cách đối xử với nhau như loài vật. Họ sẽ cắn xé nhau chỉ để đảm bảo việc sinh tồn mà thôi.
Thấy được tầm quan trọng của tình yêu giữa người với người, và cũng thấy được sự cao quý của tình yêu giữa Thiên Chúa và nhân loại. Hơn thế nữa, cần phải làm cho bản chất của Thiên Chúa được thể hiện trong cuộc sống của người môn đệ, nên Đức Giêsu đã truyền và dạy cho các ông bài học yêu thương khi nói: “Anh em hãy thương nhau như Thầy đã thương yêu anh em”.
Khi nói như thế, Đức Giêsu muốn cho những ai tin và tiếp bước thì cũng được hòa vào và đi trong đường lối yêu thương của Thiên Chúa để được hạnh phúc. Đồng thời cũng cần sống và diễn tả tình yêu ấy cho người khác.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi người hãy yêu thương nhau bằng một tình yêu không phân biệt hay loại trừ. Yêu mà không mong đền đáp, nhưng yêu một cách vô vị lợi, luôn chia sẻ, cảm thông và tha thứ với mọi hoàn cảnh. Sẵn sàng phục vụ như một người tôi tớ… và cuối cùng, coi sự sống của mình là sự sống của người khác, nên nếu cần, chấp nhận hy sinh cho người khác như Đức Giêsu đã hiến mạng vì bạn hữu của mình.
Lạy Chúa Giêsu, lời mời gọi yêu như Chúa, chúng con hiểu cả! Nhưng sống điều mình hiểu thật là không dễ chút nào! Xin Chúa ban cho chúng con quả tim, đôi mắt, đôi tai, đôi tay và đôi chân của Chúa, để chúng con can đảm thực thi lệnh truyền yêu thương của Chúa trong niềm tin, lòng mến và sự phó thác. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy niệm 5 : Hợp nhất yêu thương nhau
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Mầu nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh là đỉnh cao chói sáng của tình yêu Chúa Giêsu trao ban cho nhân loại. Nay Chúa mời gọi ta suy ngắm. Hãy cảm nghiệm tình yêu cao cả đó để hợp nhất yêu thương nhau.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, con thuộc lòng mười điều răn, con hiểu rằng mến Chúa yêu người là điều cốt lõi. Nhưng trong thực tế đời thường, con lại đối xử với nhau không theo tiêu chuẩn tình yêu. Lòng con đầy ích kỷ, tham vọng, và được che đậy cách khéo léo. Gia đình con chưa thực sự hiệp nhất trong tình yêu Chúa. Bầu khí gia đình chưa thật sự trên thuận dưới hoà, con cái chưa thảo hiếu, vợ chồng chưa thương yêu nhau.
Xin ánh sáng của Chúa Phục Sinh chiếu dọi vào tâm hồn con. Xin Chúa sưởi ấm và biến đổi tâm hồn con, xin làm cho tình yêu đích thực ngự trị và tỏa sáng trong con. Xin cho con biết cảm thông, biết chia sẻ, biết đón nhận nhau, biết cho đi… Nhất là xin cho con biết hy sinh đến độ quên mình như Chúa. Nhờ đó, ánh sáng vinh quang của mầu nhiệm Phục Sinh sẽ tỏa chiếu rạng ngời trong con.
Xin Chúa cho con biết sống mầu nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh trong từng suy nghĩ, trong từng lời nói, trong cách sống, để con chết đi cho hận thù, ích kỷ, vụ lợi. Và xin cho ánh sáng vinh quang Phục Sinh chiếu tỏa qua nụ cười cảm thông, qua ánh mắt đón nhận nhau, qua sự phục vụ quên mình. Xin cho con ý thức rằng yêu thương anh em bằng tình yêu Chúa là con đang hòa điệu với nhịp đập của trái tim Chúa và là dấu chứng cho mọi người nhận ra Chúa là tình yêu. Amen
Ghi nhớ: “Ðây là lệnh truyền của Thầy: Các con hãy yêu mến nhau”.
Suy niệm 6 : Cố gắng yêu thương
(Lm Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Khi người ta hỏi cha Phêrô (Abbé Pierre), người được người Pháp yêu mến nhất trong thế kỷ XX (cha giúp đỡ anh em bất hạnh đầu đường xó chợ có công ăn việc làm để mưu sinh): Nếu mai đây ngài mất đi, người ta nên ghi lại điều gì về cuộc đời ngài. Cha trả lời liền không ngần ngại: “Xin đề trên mộ tôi câu này: Nơi yên nghỉ của một người đã cố gắng yêu thương”.
Mục sư Martin Luther King người đã xả thân tranh đấu cho dân da đen được bình đẳng như người da trắng tại Hoa Kỳ, được giải thưởng Nobel Hòa bình. Cũng vì tinh thần dấn thân, vì quyền lợi của người da đen mà ông đã bị ám sát. Trong quyển nhật ký của Luther King đã viết những dòng sau đây: “Tôi rất hãnh diện, nếu ngày tôi qua đời ai đó sẽ kể lại rằng Martin Luther King là người đã cố gắng sống và yêu thương”.
Suy niệm
Lời mời gọi của Chúa Kitô dành cho những ai bước đi theo Ngài: “Hãy ở lại trong tình thương của Thầy” (Ga 15,9c). Dịch sát theo nguyên tự Hy Lạp là: “Hãy ở trong tình yêu vốn thuộc về Thầy” (xe lu Abel, Gl:ammaire du treo biblique 33r Rem.I) nghĩa là “trong tình yêu Thầy dành cho anh em”. Yêu Ngài, gắn bó với Ngài thúc đẩy theo mệnh lệnh của Ngài thực thi điều răn quan trọng nhất: “Ðây là điều răn của Thầy: anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 15,12).
Từ ngữ trung tâm của lời Chúa truyền là “tình yêu” (tiếng Hy Lạp: agape), và tình yêu cũng là từ chìa khóa của chuyển động tuần hoàn vòng tròn. Tác giả A. Marchadour đưa ra một nhận xét: “Trong trường hợp này, hoàn trả và tặng đáp lễ, luật của tình yêu, luôn hướng về một đối tượng khác với người đã trao tặng. Sự đáp trả của Đức Giêsu đối với tình yêu của Chúa Cha lại hướng về các môn đệ. Cũng thế sự đáp trả của các môn đệ đối với tình yêu của Đức Giêsu dành cho mình lại hướng về anh em” (Tin Mừng theo thánh Gioan, Centurion, trang 202).
Tình yêu trao ban cho anh em mà Đức Giêsu muốn người môn đệ thực hành luôn mang những đặc tính tiệm tiến:
– Yêu như Chúa yêu: “Thiên Chúa đã sai Con Một đến thế gian để nhờ Con Một của Người mà chúng ta được sống… và sai Con Một Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta” (1Ga 4,8-11). Tình yêu chia sẻ ấy đã được thánh Gioan tông đồ mô tả: “Căn cứ vào điều này chúng ta biết tình yêu là gì, đó là Đức Kitô đã phó mạng vì chúng ta” (1Ga 3,16), yêu như thầy: “Các con hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương các con” (Ga 15,12). Yêu tận cùng bằng hy sinh bản thân và cho đến chết.
– Yêu đến tận cùng như Chúa Giêsu dạy: “Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người thí mạng vì bạn hữu mình” (Ga 15,13). Ngài đã thực hiện chính sự hy sinh cao độ như các tông đồ xác tín: “Đức Kitô đã chết vì chúng ta” (x. Rm 5,6.8; Ep 5,2; 1Ga 3,16). Thánh Gioan diễn giải: “Đức Kitô đã thí mạng vì chúng ta. Như vậy, cả chúng ta nữa, chúng ta cũng phải thí mạng vì anh em” (1Ga 3,16). Bằng việc làm cụ thể, đòi phải hy sinh, mà hy sinh càng lớn thì tình yêu càng sâu đậm, càng tha thiết.
– Tình yêu phải được thể hiện trong việc làm như Chúa Giêsu truyền là: “Nếu như các con giữ điều răn của Thầy”. Thánh Gioan diễn giải: “Hỡi anh em là những người con bé nhỏ, chúng ta đừng yêu nhau nơi đầu môi chót lưỡi, nhưng phải yêu thương cách chân thật và bằng việc làm” (1Ga 3,16-18).
Theo lệnh truyền của Thầy, chúng ta cùng tiến bước vào thế giới mang tâm tình: “Chúng ta được đặt để vào trong trái đất này một không gian nhỏ bé, để chúng ta có thể học hỏi được việc mang lại những tia sáng của tình yêu” (William Blake).
Ý lực sống: “Chúng ta đừng yêu thương nơi đầu môi chót lưỡi, nhưng phải yêu thương cách chân thật và bằng việc làm” (1Ga 3,18).
Suy niệm 7 : Các con hãy yêu thương nhau
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Trước khi từ biệt các môn đệ thân yêu để đi vào cuộc tử nạn. Đức Giêsu đã nói với các ông mệnh lệnh cuối cùng của Ngài, và cũng là lời trăn trối, lời di chúc của Ngài: “Đây là điều răn của Thầy, các con hãy yêu thương nhau”. Đó là câu mở đầu của bài Tin Mừng, và cũng là câu cuối cùng của bài Tin Mừng, Chúa nhắc lại: “Điều Thầy truyền cho các con là hãy yêu thương nhau”. Rõ ràng Đức Giêsu muôn dạy các môn đệ và chúng ta hãy yêu thương nhau.
2. Sứ điệp lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi người hãy yêu thương nhau bằng một tình yêu không phân biệt hay loại trừ. Yêu mà không mong đền đáp, nhưng yêu một cách vô vị lợi, luôn chia sẻ, cảm thông và tha thứ với mọi hoàn cảnh. Sẵn sàng phục vụ như người tôi tớ… và cuối cùng, coi sự sống của mình là sự sống của người khác, nên nếu cần, chấp nhận hy sinh cho người khác như Đức Giêsu đã hiến mạng vì bạn hữu của mình.
3. Tình yêu trao ban cho anh em mà Đức Giêsu muốn người môn đệ thực hành luôn mang những đặc tính tiệm tiến:
– Yêu như Chúa yêu: “Các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con (Ga 15,12) hoặc “Thiên Chúa đã sai Con Một đến thế gian để nhờ Con Một của Người mà chúng ta được sống… và sai Con Một Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta” (1G 4,8-11).
– Yêu đến tận cùng như Đức Giêsu dạy: “Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người thí mạng vì bạn hữu” (Ga 15,13). Thánh Gioan diễn tả: “Đức Kitô đã thí mạng vì chúng ta. Như vậy, cả chúng ta nữa, chúng ta cũng phải thí mạng vì anh em” (1Ga 3,16).
– Tình yêu phải thể hiện trong việc làm: “Nếu các con giữ điều răn của Thầy”. Thánh Gioan diễn tả: “Hỡi anh em là những người con bé nhỏ, chúng ta đừng yêu nhau nơi đầu môi chót lưỡi, nhưng phải yêu thương cách chân thật và bằng việc làm” (1Ga 3,16-18).
4. Hy sinh cho người thân yêu là một đòi hỏi thường tình của tình yêu. Hy sinh cho người xa lạ là điều đáng khâm phục, và sẵn sàng hy sinh mạng sống cho người khác được sống quả là một diễn tả tuyệt vời của tinh yêu.
Ai đã có dịp đọc cuốn tiểu thuyết “Anh phải sống” của Khái Hưng mới thấy thấm thía lời Đức Giêsu đã day. Nội dung cuốn tiểu thuyết nói về việc hai vợ chồng nọ quá nghèo, nên phải đi kiếm củi trên ngàn để bán lấy tiền nuôi con. Hôm đó trên đường về, họ gặp trời giông bão. Họ bị nước cuốn trôi đi. Họ bám được vào một khúc cây nhưng khúc cây quá nhỏ chỉ đủ cho một người bám. Họ không thể kéo dài mãi tình trạng hai người cùng bám vào một khúc cây. Kéo dài thêm thì sẽ chết cả hai. Trước tình trạng đó, đòi hỏi họ có một sự lựa chọn. Người chồng bảo người vợ hãy bám vào khúc cây, vì “em phải sống để lo cho các con”. Người vợ cũng bảo người chồng “anh phải sống”. Cuối cùng, người vợ buông tay, tự tìm lấy cái chết cho mình, để nhường sự sống lại cho chồng và các con.
5. Tin Mừng hôm nay cũng hướng chúng ta về hình ảnh yêu thương tuyệt vời này: “Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người hiến mạng sống mình vì người yêu”. Chúa Giêsu đã cứu thoát nhân loại bằng cách hiến mạng sống mình qua cái chết trên Thập giá như một biểu lộ tột cùng của tình yêu. Một Thiên Chúa quyền năng có thể cứu nhân loại mà không cần phải nhập thể làm người và chết trên Thập giá. Thế nhưng, Ngài đã chọn phương thế này vì Ngài muốn cho con người có được cảm nghiệm sâu xa về tình yêu của Ngài theo cách thế loài người, đó là hy sinh mạng sống vì người mình yêu.
6. Tóm lại, tình yêu không thể diễn tả được hết bằng ngôn từ, nhưng là sự cảm nhận rất riêng của mỗi người trong sự rung cảm của trái tim mà không bị lệ thuộc của bất cứ ranh giới nào. Tuy nhiên, người môn đệ có một tiêu chuẩn để diễn tả tình yêu đích thật, là tuân giữ điều răn yêu thương của Chúa dành cho tha nhân, yêu thương một cách vô vị lợi, không so đo tính toán hơn thiệt, mà là “yêu như Chúa đã yêu” khi sẵn sàng hy sinh cả tính mạng vì bạn hữu.
7. Truyện: Sẵn sàng chết cho người khác.
Một vị đạo sĩ kia kể rằng: Ngày nọ, ông từ trên núi cao đầy băng tuyết đi xuống với một người Tây Tạng. Dọc đường, ông gặp một người ngã quỵ trên băng tuyết, ông nói với ngưới Tây Tạng đồng hành:
– Chúng ta mau lại giúp đỡ người gặp nạn đó!
Nhưng người Tây tạng trả lời:
– Không ai bắt buộc chúng ta phải giúp đỡ kẻ khác, khi mà chính mạng sống của chúng ta đang bị giá lạnh đe dọa.
Nhưng vị đạo sĩ nói:
– Dù chúng ta có phải chết vì lạnh đi nữa thì chúng ta cũng nên chết vì đã giúp ngưới khác, đó là điều tốt đẹp hơn.
Nói rồi, vị đạo sĩ chạy lại vác người bị nạn lên vai và khệ nệ đem người đó xuống núi, trong khi người Tây tạng đã bỏ xuống trước. Đi được một quãng, vị đạo sĩ thấy người bạn đồng hành Tây tạng đang nằm dài trên tuyết bất động. Thì ra, anh ta quá mệt ngồi nghỉ và bị lạnh cóng chết lúc nào không biết, còn vị đạo sĩ vì phải hết sức vác người bị nạn nên cơ thể nóng lên thêm, nhờ đó mà ông thoát chết vì lạnh.
Suy niệm 8 : Kitô hữu phải yêu mến nhau
(Lm Giuse Đinh Tất Quý)
Hôm nay, chúng ta suy niệm về việc Kitô hữu phải yêu mến nhau.
1. Những tiếng “Yêu thương”, “Tình gia đình”, “Huynh đệ”, “Chia sẻ”, “hiệp thông”…là những từ ngữ được nói quá nhiều nhưng nhiều khi chỉ là sáo ngữ, rỗng tuếch, ngôn hành tương phản. Chính chúng ta cũng rất nhiều lần nói như thế. Ước gì từ nay chúng ta nói những chữ ấy một cách thật lòng, nhất là nói với những người cùng niềm tin, cùng lý tưởng với chúng ta.
2. “Điều Thầy truyền dạy cho anh em là hãy yêu thương nhau” (Ga 15,17).
Chúa muốn thế, nhưng hình như còn rất nhiều người chưa sống được như thế.
Đây là một câu chuyện đã xảy ra ở bên Trung quốc, một quốc gia có truyền thống của Đạo Khổng, đạo luôn khuyên dạy mọi người hãy sống với nhau như anh em một nhà (tứ hải giai huynh đệ).
Mỗi năm, cứ vào khoảng từ 23 tháng chạp đến tết, là đất Trung Quốc nhộn nhịp hẳn lên vì đó là thời gian chuẩn bị cầu Phúc. Năm đó, trong khoảng thời gian này, Lỗ Tấn gặp thím Tường Lâm cứ lang thang ở ngoài đường giữa lúc trời lạnh giá. Thím là một nông dân cần cù. Chồng trước thì chết sớm, chồng sau chết vì thương hàn, thằng con nhỏ thì bị chó sói vồ… Dân chúng đã không thương thì chớ lại còn bày chuyện nói rằng, mai sau thím sẽ bị cưa đôi để chia cho hai con ma chồng. Bị dân làng nghĩ như thế cho nên thím luôn phải sống trong sợ hãi. Ai cũng nói thím là đồ ô uế. Chủ nhà không cho thím sờ tay vào các lễ vật, dù đó chỉ là cái chân đèn… Sống trong hoàn cảnh như thế, thím từ từ suy sụp và sinh hoảng loạn. Rồi một hôm kia thím bỏ nhà ra đi.
Lỗ Tấn nhìn thấy tóc thím trắng xóa, tay thím xách cái làn tre, trong có cái bát mẻ không đựng gì, còn tay kia thì cầm cây gậy trúc đầu toe tóe, lang thang trên đường, miệng lẩm bẩm gọi tên con mình. Không chịu nổi tiết trời lạnh lẽo, thím nằm chết trên một đống tuyết vào lúc giao thừa đến, pháo nổ vang trời. Các gia đình giàu có mở cửa ra, thấy vậy, không những đã không thương còn quát lên: “Tại sao chết vào lúc tao đang cầu phúc?”.
Vâng! nếu chúng ta không cẩn trọng có thể cũng có lúc chúng ta cũng chẳng kém ác tâm vô cảm như thế với những anh chị em của chúng ta.
+ Trái lại, nếu người ta biết yêu thương nhau thực sự như Chúa mong muốn, thì hạnh phúc chẳng cần đi tìm, tự nhiên nó sẽ đến.
Một vị đạo sĩ kia kể rằng, ngày nọ, ông từ trên núi cao đầy băng tuyết đi xuống với một người Tây Tạng. Dọc đường, ông gặp một người ngã quỵ trên băng tuyết, ông nói với người Tây Tạng đồng hành:
– Chúng ta mau lại giúp đỡ người gặp nạn đó!
Nhưng người Tây Tạng trả lời:
– Không ai bắt buộc chúng ta phải giúp đỡ kẻ khác, khi mà chính mạng sống của chúng ta đang bị giá lạnh đe dọa.
Nhưng vị đạo sĩ nói:
– Dù chúng ta có phải chết vì lạnh đi nữa thì chúng ta cũng nên chết vì đã giúp người khác, đó là điều tốt đẹp hơn.
Nói rồi vị đạo sĩ chạy lại vác người bị nạn lên vai và khệ nệ đem người đó xuống núi, trong khi người Tây Tạng đã bỏ xuống trước. Đi được một quãng, vị đạo sĩ thấy người bạn đồng hành người Tây Tạng đang nằm dài trên tuyết bất động. Thì ra, anh ta mệt quá, ngồi nghỉ và bị lạnh cóng chết lúc nào không biết, còn vị đạo sĩ vì phải hết sức vác người bị nạn nên cơ thể nóng lên thêm, nhờ đó mà ông đã thoát chết vì lạnh.
3. Chúa còn nói: “Không có tình yêu nào lớn hơn bằng tình yêu của người thí mạng vì bạn hữu mình” (Ga 15,13).
Yêu thì phải hy sinh. Một vị Giám mục kia nói: “Tình yêu không có hy sinh là tình yêu giả. Và hy sinh không vì tình yêu là hy sinh thừa”.
Hồi còn học ở Tiểu chủng viện, tôi có được xem một cuốn phim mà nay tôi vẫn còn nhớ rất rõ nội dung của nó. Cuốn phim có tựa đề là “Anh phải sống”. Nội dung cuốn phim nói về việc hai vợ chồng nọ quá nghèo, nên phải đi kiếm củi trên ngàn để bán lấy tiền nuôi con. Hôm đó trên đường về, họ gặp trời giông bão. Họ bị nước cuốn trôi đi. Họ bám được vào một khúc cây nhưng khúc cây quá nhỏ chỉ đủ cho một người bám. Họ không thể kéo dài mãi tình trạng hai người cùng bám vào khúc cây này. Kéo dài thêm thì sẽ chết cả hai. Trước tình trạng đó, đòi hỏi họ phải có một sự lựa chọn. Người chồng bảo người vợ hãy bám vào khúc cây, vì “em phải sống để lo cho các con”. Người vợ cũng bảo người chồng “anh phải sống”. Cuối cùng, người vợ buông tay, tự tìm lấy cái chết cho mình, để nhường sự sống lại cho chồng và cho con.
Vâng, yêu thương là hy sinh, yêu thương chính là quên mình.
Hãy biết yêu như Chúa để chúng ta được xứng đáng là môn đệ của Ngài: “Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ của Thầy, là các con yêu thương nhau”. (Ga 13,35).
*Xin bấm vào đọc Kinh Phụng Vụ.
*Xin bấm vào nghe chia sẽ Lời Chúa.