Phụng Vụ Thánh Lễ

CHÚA NHẬT 6 PHỤC SINH NĂM A.

BÀI ĐỌC I: Cv 8, 5-8. 14-17

“Các ngài đặt tay trên họ, và họ nhận lãnh Thánh Thần”.

Trích sách Tông đồ Công vụ.

Trong những ngày ấy, Philipphê đi xuống một thành thuộc sứ Samaria, rao giảng Ðức Kitô cho họ. Dân chúng chú ý đến những lời Philipphê rao giảng, vì họ cũng nghe biết và xem thấy các phép lạ ngài làm. Quỷ ô uế đã ám nhiều người trong họ, lúc đó kêu lớn tiếng và xuất ra. Nhiều người bất toại và què quặt được chữa lành. Bởi đó cả thành được vui mừng khôn tả.

Khi các tông đồ ở Giêrusalem nghe tin Samaria đón nhận lời Thiên Chúa, liền gởi Phêrô và Gioan đến với họ. Khi đến nơi, hai ngài cầu nguyện cho họ được nhận lãnh Thánh Thần: vì chưa có ai trong họ được nhận lãnh Thánh Thần, họ mới chỉ được chịu phép rửa nhân danh Chúa Giêsu. Bấy giờ các ngài đặt tay trên họ, và họ nhận lãnh Thánh Thần.

Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 65, 1-3a. 4-5. 6-7a. 16 và 20

Ðáp: Toàn thể đất nước, hãy reo mừng Thiên Chúa! (c. 1)

1) Toàn thể đất nước, hãy reo mừng Thiên Chúa! Hãy ca ngợi vinh quang danh Người; hãy kính dâng Người lời khen ngợi hiển vinh. Hãy thưa cùng Thiên Chúa: kinh ngạc thay sự nghiệp Chúa!.

2) Toàn thể đất nước thờ lạy và ca khen Ngài, ca khen danh thánh của Ngài. Hãy tới và nhìn coi sự nghiệp của Thiên Chúa, Người thi thố những chuyện kinh ngạc giữa con cái người ta!.

3) Người biến bể khơi thành nơi khô cạn, người ta đã đi bộ tiến qua sông, bởi đó ta hãy hân hoan trong Chúa! Với quyền năng, Người thống trị tới muôn đời.

4) Phàm ai tôn sợ Chúa, hãy đến, hãy nghe tôi kể lại, Chúa đã làm cho linh hồn tôi những điều trọng đại biết bao. Chúc tụng Chúa là Ðấng không hất hủi lời tôi nguyện, và không rút lại lòng nhân hậu đối với tôi.

BÀI ĐỌC II: 1 Pr 3, 15-18

“Người đã chết theo thể xác, nhưng đã nhờ Thần Linh mà sống lại”.

Trích thư thứ nhất của Thánh Phêrô Tông đồ.

Anh em thân mến, anh em hãy tôn thờ Chúa Kitô trong lòng anh em, hãy luôn luôn sẵn sàng trả lời thoả mãn cho mọi kẻ hỏi lý do của niềm hy vọng nơi anh em, nhưng phải làm cách hiền từ, kính cẩn, hãy có lương tâm ngay chính, để những kẻ lăng mạ đời sống đạo đức của anh em trong Ðức Kitô, phải hổ thẹn về điều họ gièm pha anh em.

Vì nếu Thiên Chúa muốn, thì thà làm việc thiện mà đau khổ còn hơn là làm điều gian ác. Vì Ðức Kitô đã chết một lần cho tội lỗi chúng ta, Người là Ðấng công chính thay cho kẻ bất công, để hiến dâng chúng ta cho Thiên Chúa; thật ra Người đã chết theo thể xác, nhưng đã nhờ Thần Linh mà sống lại.

Ðó là lời Chúa.

ALLELUIA: Ga 14, 23

Alleluia, alleluia! – Chúa phán: “Nếu ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy, và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy, và Chúng Ta sẽ đến và ở trong người ấy”. – Alleluia.

PHÚC ÂM: Ga 14, 15-21

“Thầy sẽ xin Cha và Người sẽ ban cho các con một Ðấng Phù Trợ khác”.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Nếu các con yêu mến Thầy, thì hãy giữ giới răn Thầy. Và Thầy sẽ xin Cha, và Người sẽ ban cho các con một Ðấng Phù Trợ khác, để Ngài ở với các con luôn mãi.

Ngài là Thần Chân Lý mà thế gian không thể đón nhận, vì thế gian không thấy và cũng chẳng biết được Ngài; còn các con, các con biết Ngài, vì Ngài sẽ ở nơi các con và ở trong các con. Thầy sẽ không bỏ các con mồ côi: Thầy sẽ đến với các con. Một ít nữa, thế gian sẽ không còn thấy Thầy. Phần các con, các con thấy Thầy vì Thầy sống và các con cũng sẽ sống. Trong ngày đó, các con sẽ hiểu biết rằng Thầy ở trong Cha Thầy, và các con ở trong Thầy, và Thầy ở trong các con. Ai nhận các luật Thầy truyền và giữ các luật đó, thì người ấy là kẻ mến Thầy. Và ai mến Thầy sẽ được Cha Thầy yêu mến, và Thầy sẽ yêu nó, và sẽ tỏ mình ra cho nó”.

Đó là lời Chúa.

1.Anh em cũng sẽ sống–‘Manna’–Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ.

Suy Niệm

Marina Picasso là cháu của họa sĩ nổi tiếng Pablo Picasso.

Từ năm 73-75, bà phải chịu nhiều cái tang lớn:

ông nội mất, anh ruột tự tử, cha đột ngột qua đời.

Đây thật là những mất mát không sao bù đắp,

dù bà năm trong tay một gia sản khổng lồ.

Năm 1990, bà nhận các em bé Việt Nam làm con nuôi,

và giúp cho các trẻ mồ côi được có nơi ăn học.

Từ lúc ấy, bà thấy một sự thay đổi nơi nội tâm:

“Nhờ giúp đỡ con em của nước này

mà tôi đã tìm lại được chính mình.

Giờ đây tôi cảm thấy mình như sống lại,

và tôi muốn phân phát sự sống đó cho các em.”

Hẳn có những Kitô hữu đã trải qua kinh nghiệm của Marina,

kinh nghiệm thấy mình được sống lại

nhờ biết ra khỏi nỗi đau của mình

để cúi xuống trên nỗi đau của người khác.

Kinh nghiệm tìm lại được chính mình trong bình an,

khi không còn bận tâm lo cho mình nữa,

kinh nghiệm thấy sự sống được nhân lên gấp bội

khi được đem chia sẻ tận tình.

Kitô giáo là tôn giáo của Đấng đã sống lại,

Đấng đang sống sự sống tràn trề của Thiên Chúa.

Đức Giêsu phục sinh không chỉ hiện ra một đôi lần,

Ngài muốn ở mãi bên chúng ta cho đến tận thế.

Một sự hiện diện hai chiều, thâm sâu và mới mẻ:

“Anh em ở trong Thầy và Thầy ở trong anh em” (c.20)

Một sự hiện diện đem lại sức sống dồi dào:

“Vì Thầy sống và anh em cũng sẽ sống” (c.19).

Kitô hữu tự bản chất là người đã được phục sinh,

nhờ thông hiệp với Đấng đang sống là Đức Kitô.

“Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi,

mà là Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2,20).

Mùa Phục sinh nhắc ta nhìn lại sự sống nơi mình.

Lắm khi tôi sống èo uột, chỉ vì không dám yêu thương.

Bắt đầu yêu thương là bắt đầu thấy Chúa tỏ mình,

thấy sự sống Chúa bùng lên mạnh mẽ.

Thế giới hôm nay cố làm cho cuộc sống

được bảo đảm hơn, tiện nghi hơn và kéo dài hơn.

Nhưng thế giới hôm nay vẫn đầy nguy hiểm.

Mạng sống bi đe dọa bởi chiến tranh, tội ác, đói nghèo…

Cuộc sống bị héo úa vì không tìm thấy ý nghĩa.

Thế giới đói khát sự sống đích thực.

Nếu chúng ta thật sự là người đang sống trong Đức Kitô,

chúng ta có thể trao cho thế giới sự sống đó

qua việc phục vụ trong yêu thương.

Gợi Ý Chia Sẻ

1. Để cảm nghiệm được Thiên Chúa, cần phải can đảm sống theo lời Ngài dạy, dù phải từ bỏ và chịu thua thiệt trước mắt. Có khi nào bạn thấy Chúa thật gần gũi, vì bạn đã dám sống cho tha nhân không?

2. Khi tinh thần bạn sa sút vì những nỗi đau riêng tư, bạn thường làm gì để ra khỏi sự sa sút đó?

Cầu Nguyện

Lạy Chúa Giêsu phục sinh,

Xin ban cho con sự sống của Chúa,

sự sống làm đời con mãi mãi xanh tươi.

Xin ban cho con bình an của Chúa,

bình an làm con vững tâm giữa sóng gió cuộc đời.

Xin ban cho con niềm vui của Chúa,

niềm vui làm khuôn mặt con luôn tươi tắn.

Xin ban cho con hy vọng của Chúa,

hy vọng làm con lại hăng hái lên đường.

Xin ban cho con Thánh Thần của Chúa,

Thánh Thần mỗi ngày làm mới lại đời con.

2.Sự sống mới–TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt

Nếu các Tin mừng Matthêu, Marcô và Luca mời gọi ta vào Vương quốc Thiên Chúa, thì Tin Mừng Gioan mời gọi ta vào tình yêu Chúa Giêsu Kitô. Thánh Gioan là người sống sau cùng. Sau khi đã nghiền ngẫm tất cả cuộc đời và những lời giảng dạy của Chúa Giêsu, thánh nhân nghiệm ra cái cốt lõi của cuộc sống người môn đệ là tình yêu chúa Giêsu Kitô, là kết hiệp với Chúa Giêsu Kitô, là sống sự sống của Thiên Chúa.

Tình yêu đó không phải là thứ tình yêu mơ mộng lãng mạn nhưng là một tình yêu sàng suốt của lý trí.Tình yêu đó không phải là chuyện đuổi bướm, hái hoa, rung động, xúc cảm, nhưng là một tình yêu với những việc làm cụ thể. Việc làm cụ thể đó là tuân giữ những điều Chúa Giêsu truyền dạy.

Đó chính là bí quyết Chúa Giêsu truyền lại cho các môn đệ, trước khi người giã từ các ông để đi vào thế giới đức tin. Từ nay để gặp gỡ Người, để yêu mến Người, để sống với Người, cần phải có đức tin và tình yêu.

Tin và Yêu là đôi mắt giúp ta nhìn thấy những sự thực siêu nhiên. Người không tin và không yêu sẽ không nhìn thấy như lời Chúa Giêsu nói trong Tin Mừng hôm nay: “Thầy ban cho anh em Thần chân lý, Đấng mà thế gian không thể đón nhận được vì thế gian không thấy và không biết Người”. Cũng như kiến thức ý khoa là khả năng chuyên môn giúp người bác sĩ nhận dạng được các loại vi trùng, định đúng được bệnh trạng của bệnh nhân; hoặc như kiến thức về thảo mộc củanhà thực vật học giúp họ nhận dạng phân loại và biết rõ đặc tính của những loải cây cỏ, tin và yêu cũng phải là khả năng chuyên môn giúp người môn đệ Chúa nhận ra những sự thực siêu nhiên, nhìn thấy, nhận biết và đón nhận Thiên Chúa.

Tin và Yêu, như vậy, là con đường dẫn đưa ta tới gặp gỡ Thiên Chúa.

Với đức tin và tình yêu, người môn đệ Chúa không còn thấy Thiên Chúa là một Đấng xa vời, mơ hồ, nhưng là một Đấng gần gũi, rất thật. Với đức tin và tình yêu ta sẽ gặp được Đức Chúa Cha, Đấng thương yêu, luôn chăm sóc cho ta, luôn mời gọi ta, luôn muốn ấp ủ ta, luôn muốn tha thứ cho ta.

Với đức tin và tình yêu, ta sẽ gặp được Chúa Giêsu trong bí tích Thánh Thể, trong Sách Thánh, trong những lời giáo huấn của Giáo hội và trong những anh em sống quanh ta.

Với đức tin và tình yêu, ta sẽ cảm nghiệm được sự hiện diện của Chúa Thánh Thần khi Người đốt lên trong tim ta ngọn lửa yêu mến, khi Người thúc đẩy ta dẫn thân phục vụ, khi Người soi sáng cho ta những sáng kiến trong những hoạt động mới.

Nhưng quan trọng nhất là: Tin và Yêu là hai cánh cửa mở vào sự sống thần linh. Tin và Yêu không chỉ cho ta nhìn thấy Chúa, gặp gỡ Chúa mà còn cho ta được tham dự vào sự sống của Chúa. Sự sống đó là hiệp thông, như lời Chúa Giêsu nói: “Ai có và giữ các giới răn của Thầy, người ấy là kẻ yêu mến Thầy. Mà ai yêu mến Thầy, thì sẽ được Cha của Thầy yêu mến”.

Chúa Cha ở trong Chúa Con và như Chúa Con ở trong Chúa Cha, ta sẽ được ở trong sự sống mầu nhiệm của Thiên Chúa Ba Ngôi và thật kỳ diệu, Ba Ngôi đến ở trong ta. Ở trong người nào tức là được người ấy yêu thương. Hiệp thông trong yêu thương là một thái độ cởi mở: mở tâm hồn ra để cho đi và nhận lãnh sự sống. Nhờ Tin và Yêu, ta mở lòng ra đón nhận Thiên Chúa, sự sống mới, sự sống sung mãn, sự sống vĩnh cửu.

Đúng như lời Chúa Giêsu nói: “Thầy sẽ không để anh em mồ côi”. Ai nhắm mắt đức tin, sẽ không nhìn thấy Chúa, sẽ trở thành mồ côi. Ai đóng cửa tình yêu, sẽ không gặp được Chúa, sẽ sống trong cô độc. Nhưng người môn đệ Chúa, nhờ có đức tin và tình yêu sẽ gặp được Thiên Chúa Ba Ngôi. Và như thế việc ta đi của Chúa Giêsu không những không thiệt hại mà còn ích lợi cho ta. Sự ra đi của Người dẫn ta đi đến kết hiệp với Thiên Chúa Ba Ngôi trong sự sung mãn, sự sống dồi dào.

Nhưng để đạt tới điều Chúa Giêsu đã hứa, ta hãy nhớ lại một lần nữa lời Người căn dặn: “Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em hãy giữ các giới răn của Thầy”. Đức tin được thể hiện bằng tình yêu. Tình yêu được chứng minh qua hành động. Đó là chìa khoá của đời sống Kitô hữu.

GỢI Ý CHIA SẺ

1- Theo bạn, tình yêu mến Chúa là những tình cảm bồng bột hay những việc làm cụ thể theo lý trí?

2- Có bao giờ bạn cảm nghiệm được sự hiện diện của Thiên Chúa trong đời sống không?

3- Bạn có cố gắng làm chứng cho người khác về sự hiện diện của Thiên Chúa qua đời sống cầu nguyện và bác ái của bạn không?

3.Yêu mến và giữ Lời Chúa–Lm Giuse Đinh Lập Liễm

A. DẪN NHẬP.

Thi sĩ Xuân Diệu nói: “Đố ai định nghĩa được tình yêu”. Đúng thế, cho đến nay chúng ta chưa có được một câu định nghĩa nào về tình yêu khả dĩ có thể bao hàm được mọi khía cạnh của tình yêu.  Thi sĩ Hồ Dzếnh cũng chỉ nói được như thế: “Yêu là khó nói cho xuôi, bởi ai hiểu được sao trời lại xanh”.  Thánh Gioan cũng chỉ có thể nói: “Căn cứ vào điều này, chúng ta biết tình yêu là gì: đó là Đức Kitô đã phó mạng vì chúng ta”(1Ga 13,7). Đức Giêsu chỉ khuyên người ta yêu nhau mà không hề định nghĩa tình yêu là gì, vì Ngài không muốn dùng đến những từ ngữ hay những tư tưởng trừu tượng mà chỉ khuyên người ta thực hành tình yêu thôi.

Với những lời tạ từ trong bữa Tiệc ly, Đức Giêsu chỉ dùng những lời thân tình mà khuyên các môn đệ: “Nếu các con yêu mếâân Thầy, các con hãy giữ các điều răn của Thầy”(Ga 14,15). Nói như thế, Đức Giêsu không chấp nhận một thứ tình yêu trừu tượng, mông lung, hoa mỹ hoặc văn vẻ như trong tiểu thuyết, thi ca hay trong các nghệ thuật thứ bảy. Ngài muốn một tình yêu sinh động và cụ thể đối với Ngài và đối với nhau. Theo đó, tình yêu của chúng ta đối với Ngài là vâng phục theo đường lối của Chúa, tức là tuân giữ các điều răn Ngài truyền, vì chính Ngài đã yêu mến Chúa Cha bằng cách vâng phục và thi hành mệnh lệnh của Cha Ngài (Ga 15,10).

Kitô hữu đích thực là dồn tất cả tham vọng của mình vào việc mô phỏng theo Đức Kitô. Người ta thường nói: “Kitô hữu, đó là Đức Kitô khác: “Alter Christus”. Không có định nghĩa nào chính xác và hay đẹp hơn. Khi đã theo Đức Kitô thì phải đi theo con đường khổ giá mà Ngài đã đi. Tuân theo thánh ý Chúa và giữ các điều răn của Đức Kitô là đang đi trên con đường khổ giá và con đường này sẽ dẫn chúng ta đến vinh quang.

B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.

+ Bài đọc 1: Cv 8,5-8.14-17.

Các tín hữu của cộng đoàn Giêrusalem bị các người Do thái bách hại đã lánh sang vùng Samaria của dân ngoại. Thầy phó tế Philipphê được sai đến rao giảng Tin Mừng. Dân chúng hoan hỉ đón nhận Tin Mừng này, và tiếng tăm đã đồn đến tai các tông đồ.  Các ngài liền cử ông Phêrô và Gioan  đến đặt tay ban Thánh Thần cho họ  vì họ mới chỉ được chịu phép rửa nhân danh Chúa Giêsu.

+ Bài đọc 2: 1Pr 3,15-18.

Thánh Phêrô gửi thư cho các tín hữu đang bị bách hại vì đạo Chúa để chỉ dạy cho họ cách thức thể hiện niềm tin và hy vọng của mình trước mặt lương dân.  Người ta sẽ chất vấn về niềm tin của họ, thì phải trả lời cho họ bằng hai cách sau đây:

a) Hãy trả lời cho họ bằng những lời lẽ ôn hòa và trong sự kính trọng.

b) Hãy ăn ở công minh chính trực khiến cho những kẻ bách hại phải xấu hổ vì đã bách hại.

+ Bài Tin Mừng: Ga 14,15-21.

Đức Giêsu biết trước việc Ngài ra đi sẽ làm cho các môn đệ xao xuyến nên trước khi đi vào cuộc tử nạn, đã yên ủi các ông một cách chân tình. Ngài khuyên các ông hãy yên tâm vì Ngài không để các ông sống chơ vơ như những đứa con mồ côi đâu, Ngài sẽ sai Đấng Phù trợ khác đến ở với họ luôn mãi. Đấng Phù trợ khác mà Chúa Cha sẽ ban cho  đây, chính là Chúa Thánh Thần mà các ông sẽ được lãnh nhận vào dịp lễ Ngũ tuần. Chúa Thánh Thần sẽ làm cho các tông đồâ yêu mến Chúa và thi hành lời Ngài dạy.

C. THỰC HÀNH LỜøI CHÚA.

Yêu nhau trăm sự chẳng nề

I NHỮNG LỜI NHẮN NHỦ THÂN TÌNH.

Trong bữa Tiệc ly, sau khi truyền cho các môn đệ phải yêu mến nhau và đặt việc yêu mến nhau  như là dấu chỉ để mọi người nhận ra họ là môn đệ đối với Ngài. Mở đầu đọan trích Tin mừng hôm nay theo thánh Gioan, Đức Giêsu nói: “Nếu các con yêu mến Thầy thì các con sẽ tuân giữ mệnh lệnh Thầy”(Ga 14,15).

Việc yêu mến đó được Đức Giêsu liên kết với việc tuân giữ và thực hành Lời Chúa. Những ai yêu mến Đức Giêsu và giữ Lời Ngài sẽ được ở trong cộng đồng tình yêu của Thiên Chúa: “Ai có và giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy. Mà ai yêu mến Thầy, thì sẽ được Cha của Thầy yêu mến. Thầy sẽ yêu mến người ấy và sẽ tỏ ra cho người ấy biết Thầy”(Ga 14,21).

Ở đây cho thấy Đức Giêsu không chấp nhận một thứ tình yêu trừu tượng, chỉ bằng tình cảm mông lung, Ngài chủ trương một thứ tình yêu sống động và được biểu lộ trong sự tuân phục theo đường lối của Chúa, tức là tuân giữ các giới răn Ngài truyền. Chính Đức Giêsu cũng đã yêu mến Chúa Cha  bằng cách giữ các lệnh truyền của Chúa Cha (Ga 15,10).

Lúc này, chắc các môn đệ đã cảm nhận được những việc sắp xẩy ra. Họ hẳn đã cảm nhận được chuyện bi thảm đang tới gần. Nhưng Đức Giêsu đã yên ủi họ: “Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho các con một Đấng bầu chữa khác đến với các con luôn mãi… Thầy không để cho các con mồ côi đâu”(Ga 14, 16.18). Từ ngữ “Mồ côi” dùng ở đây có nghĩa là không có cha, từ ngữ này cũng được dùng để chỉ đám môn sinh, đám học trò mất thầy, mất đi những lời dạy bảo của thầy thân yêu. Lúc Socrate chết, Platon nói về các môn sinh của Socrate rằng: “Họ nghĩ họ sẽ phải sống mồ côi suốt quãng đời còn lại như những đứa con mất cha, và họ sẽ chẳng biết phải làm gì”.

Nhưng Đức Giêsu bảo các môn đệ rằng, trường hợp của họ thì không như thế. Ngài phán: Thầy sẽ trở lại”.  Ngài có ý nói về sự phục sinh và việc Ngài luôn có mặt bên họ sau khi phục sinh. Nhưng sự hiện diện của Ngài không thể dùng giác quan mà thấy nhưng phải dùng con maắt đức tin bởi vì Ngài hiện diện một cách vô hình.

Sau cùng, Đức Giêsu kết luận: “Ai có và giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới lả kẻ yêu mên thầy… và sẽ được Cha Thầy yêu mến”(Ga 1421). Đây là một mạc khải của Đức Kitô về tình yêu của Chúa Cha.  Mạc khải này cũng hé mở cho ta hiểu thêm  về tình yêu Ba Ngôi Thiên Chúa thật thâm sâu, mật thiết trên mọi bình diện (Ga 4,34; 6,38).

II. YÊU NHAU SINH TỬ CŨNG LIỀU.

1. Yêu mến và hành động.

Đức Giêsu luôn yêu thương các môn đệ của Ngài cả khi Ngài vắng mặt. Ngài hứa không để cho các ông sống vất vưởng như những đứa con mồ côi, nhưng sẽ sai Đấng Phù trợ đến ở với các ông để yên ủi, soi sáng, khích lệ và nâng đỡ các ông. Đáp lại, Đức Giêsu cũng đòi buộc các ông phải yêu Ngài. Tình yêu đối với Ngài không phải chỉ là những tình cảm hay một cảm xúc bồng bột nhất thời, nhưng tình yêu này phải được xây dựng trên ý chí,  nghĩa là phải vâng theo lời Ngài, phải thực hiện lời Ngài trong cuộc sống vì ngài đã nói rõ: “Nếu ai yêu mến Thầy thì sẽ vâng giữ lời Thầy” (Ga 14,23).

Chữ “nếu” đây không phải là một việc làm tùy nghi nhưng là một điều kiện thiết yếu, một điều kiện mà tiếng La tinh gọi là “conditio sine qua non”, không có không được.  Từ ngữ “nếu” đây liên kết hai vế của “yêu Chúa” và “giữ lời Ngài”, hễ không có vế này thì không có vế kia.  Giữ lời hay giữ giới răn không phải là một loạt những điều tùy nghi trong nhiệt tình tình yêu của chúng ta hướng về Chúa Kitô. Đây thậm chí không phải là một điều logic: nếu tôi yêu mến Chúa Kitô, tôi phải giữ các giới răn của Ngài. Tiếng “nếu” liên kết chặt chẽ hơn lòng chúng ta yêu mến Chúa Giêsu với cách ăn ở của chúng ta trong cuộc sống: tôi chỉ yêu thương khi tôi vâng lời Ngài bởi vì tình yêu thực sự, cụ thể của tôi chính là đều mà tôi làm. Nhưng thất bại của chúng ta có nguồn gốc tại đây: từ chối hiểu rằng tình yêu không phải là một từ, một giấc mơ, cũng như một nhịp đập của tim, mà là một cách cư xử (André Sève,  Tin Mừng Chúa nhật, năm A, tr 164).

Tình yêu phải thể hiện ra bằng việc làm cụ thể, chính việc làm ấy mới bảo đảm cho tình  yêu thật.  Nếu yêu mà không thể hiện bằng hành động thì tình yêu chỉ ở trên đầu môi chóp lưỡi, hay chỉ là một cảm xúc nhất thời. Hành động đó phải được thể hiện ra trước mặt người yêu để người ấy vui lòng, và hành động theo ý người mình yêu ngay cả khi người ấy không có mặt.  Nếu không người ta sẽ nói:

Thương thương nhớ nhớ thương thương,

Nước kia muốn chảy mà mương chẳng đào. (Ca dao)

Trong cuốn sách The Living Stone có một câu truyện như sau: Jonathan làm được những việc phi thường, phần lớn vì hấp thụ được từ vị thầy khả kính. Ngày vị thầy này sắp lìa trần, ông cho gọi Jonathan trở về để gặp thầy lần cuối. Jonathan hy vọng thầy sẽ truyền cho bí quyết đặc biệt mà suốt đời thầy còn cất giữ.  Nhưng lời trăn trối cuối cùng của ông chỉ vỏn vẹn mấy chữ: “Hãy hành động vì lòng mến”.

Trong Tin Mừng mà Giáo hội cho chúng ta lắng nghe hôm nay, Đức Giêsu trước khi giã biệt các môn đệ, Ngài cũng nhắn nhủ các ông về điều căn bản của lòng mến: “Ai nghe và vâng giữ giới răn của Thầy, người ấy là kẻ yêu mến Thầy”. Đức Giêsu không đòi những kẻ yêu mến Ngài phải có những rung động thuộc cảm tính, dù rằng đó cũng là điều qúi gía cho phép chúng ta tin tưởng rằng chúng ta đang yêu mến Chúa. Tuy nhiên một tình yêu đúng nghĩa là luôn  tìm cách  làm đẹp lòng người yêu, sẵn sàng cho đi tất cả, chứ không dừng lại ở những rung cảm của thân xác phần nào nói lên tính vị kỷ của mình (Mỗi ngày một tin vui,  Phục sinh, tr 253).

Với thánh Gioan, chỉ có một cách để trắc nghiệm tình yêu thương là sự vâng lời. Đức  Giêsu đã chứùng minh Ngài yêu Chúa Cha bằng sự vâng lời.  Ông  Barett nói: “Thánh Gioan chẳng bao giờ cho phép biến tình yêu thành một thứ cảm xúc. Tình yêu được bộc lộ dưới tính cách đạo đức, bầy tỏ ra bằng sự vâng lời”.

Chúng ta biết nhiều người chỉ yêu thương qua đầu môi chót lưỡi, đồng thời lại làm cho những người họ yêu phải đau đớn, khổ tâm. Có những thanh thiếu niên bảo chúng yêu thương cha mẹ, nhưng lại gây buồn khổ, lo âu cho cha mẹ. Có những ông chồng bảo yêu vợ, có những bà vợ bảo yêu chồng, nhưng lại hay cộc cằn, gắt gỏng, thô lỗ, nhỏ nhen, vô tâm vô tính, làm cho chồng hay vợ mình phải đau khổ.  Với Đức Giêsu, tình yêu thương chân thật không phải là điều dễ dàng, tình yêu chân thật chỉ có thể chứng minh bằng “sự vâng lời chân thật”.

2. Hành động như thế nào.

Một người nọ đã từng trông thấy một thiên thần đi bộ xuống phố, tay cầm bó đuốc, tay kia cầm xô nước. Người ấy liền hỏi: “Ngài làm gì với bó đuốc và xô nước vậïy”? Vị thiên thần đột ngột đứng lại nhìn vào người ấy nói: “Ta sẽ thiêu rụi các tòa nhà trên trời bằng bó đuốc và sẽ dập tắt lửa hoả ngục bằng xô nước. Lúc đó chúng ta sẽ thấy được ai là kẻ thực sự yêu mến Thiên Chúa”.  Chủ ý của vị thiên thần muốn nói là nhiều người vâng theo lệnh Chúa là vì sợ hỏa ngục hoặc vì hy vọng phần thưởng Nước Trời. Họ không giữ huấn lệnh ấy vì yêu thương như Đức Giêsu đã nêu ra trong  Tin Nừng hôm nay: “Nếu các con yêu mến Thầy, các con sẽ vâng giữ lời Thầy”.

Có hai loại tình yêu: tình yêu vô vị lợi hay vị tha và tình yêu vị lợi hay vị kỷ.

a) Tình yêu vô vị lợi.

Đây là thứ tình yêu vị tha, một thứ tình yêu chỉ biết cho đi, chỉ lo tìm hạnh phúc cho người yêu, tình yêu không so đo tính toán, tình yêu quảng đại; và tình yêu vị tha lên đến chóp đỉnh là sẵn sàng chết cho người mình yêu như Chúa Giêsu đã nói: “Không có tình yêu nào lớn bằng tình yêu của người chết cho người yêu” (Ga 15,13).  Tình yêu này là tình yêu của Thiên Chúa dành cho loài người và đã được thực hiện nơi đức Giêsu chịu treo trên thập giá.

Người đời cũng nói lên được một phần nào thứ tình yêu vô vị lợi ấy:

Yêu anh cốt rũ xương tàn,

Yêu anh đến thác vẫn còn yêu anh.

hoặc:

Yêu nhau mỗi thứ mỗi cho,

Ghét nhau thì mảnh quạt mo cũng đòi. (Ca dao)

Truyện: cha Maximilien Kolbe

Cha Maximilien Kolbe làm gương cho chúng ta về cung cách sống của người môn đệ Chúa: Một buổi sáng cuối tháng 7 năm 1941 tại trại tập trung Oswiccim của Đức quốc xã, có một người vượt ngục, 10 người khác bị xử thay vào. Các nạn nhân run rẩy bước ra, đứng không vững, khiếp đảm, không dám kêu la, trừ một người kêu ré lên “Ôi vợ và các con tôi”.

Hàng trăm dẫy tù nhân xếp hàng dài im thin thít, hú hồn vì chưa phải tên mình, không một ai dám cựa quậy. Bỗng từ dãy tù nhân bên trái, một người gầy guộc rời hàng bước về phía viên trưởng trại. Mọi người nín thở: chuyện chưa từng có! Viên trưởng trại đặt tay lên súng:

– Anh muốn gì?

– Tôi muốn chết thay một người trong bọn họ.

Viên trưởng trại sửng sốt. Y tưởng mình nghe lầm. Nhưng không, người kia thực sự xin được chết thay cho người có vợ và các con đang đợi ở nhà.  Sau mấy câu gượng gạo, viên trưởng trại nhượng bộ, chấp nhận lời yêu cầu. Kẻ tình nguyện đó chính là Maximilien Kolbe, một Linh mục công giáo.  Cha đã được Đức thánh Cha Gioan-Phaolô II phong thánh ngày 10.10.1982 tại Roma.

b) Tình yêu vị lợi (vị kỷ).

Đây là thứ tình yêu trá hình, Đối tượng của tình yêu không phải là người được yêu mà là chính mình. Người yêu chỉ lợi dụng người được yêu để tìm lợi ích cho mình, cho hạnh phúc của riêng mình; còn người được yêu chỉ là phương tiện được dùng để người yêu khai thác. Tình yêu trá hình này đã được nhà thơ ngụ ngôn La Fontaine diễn tả trong câu truyện con thỏ và con cọp.

Câu truyện đó là con cáo không may bị rơi xuống hố sâu, không cách nào lên được. May thay, một con cọp đi qua, con cáo xin cứu đưa lên.  Con cọp tỏ ra thương hại muốn cứu vớt nhưng với điều kiện: khi lên bờ cáo phải chịu cho cọp ăn thịt. Cáo đồng ý. Cọp nhảy xuống hố. Cáo nhảy lên lưng cọp và nhảy ngay lên bờ, biến mất. Cọp lên bờ buồn rầu than: “Chị đã thương em đến thế mà em không biết ơn”.

Như vậy, cọp đâu có thương con cáo, chỉ biết thương mình thôi, đã thương sao lại còn đòi ăn thịt cáo?  Con người chúng ta đôi lúc cũng vậy. Nhiều khi việc làm của chúng ta có vẻ lo cho người khác, nhằm ích lợi cho người khác, tạo hạnh phúc cho họ, nhưng trong thực tế, họ chỉ có một tình yêu giả tạo. Tình yêu đó được người ta gói ghém trong câu ca dao:

Thương thay những kẻ quạt mồ,

Hại thay những kẻ lấy vồ đập săng. (Ca dao)

3. Thái độ của ta đối với Chúa.

Nếu thánh Giacobê nói: “Đức tin không có việc làm là đức tin chết” thì chúng ta cũng có thểû nói được: tình yêu mà không được thể hiện ra bằng hành động cụ thể thì chỉ là thứ tình yêu trên mây gió, một tình yêu èo uột, một tình cảm phớt qua, có khi là một tình yêu trá hình, giả tạo. Tình yêu chân thật đòi hỏi hy sinh như Pierre l’Ermite nói: “nếu biết tình yêu có chân thật hay không, hãy bỏ tình yêu vào máy ép, nếu nó tiết ra chất hy sinh vô vị lợi, đó là tình yêu thật”.

Thánh Gioan tông đồ nói: “Căn cứ vào điều này, chúng ta biết tình yêu là gì: đó là Đức Kitô đã phó mạng vì chúng ta”(1Ga 3,16). Nếu yêu là hy sinh, mà giữ luật Chúa là hy sinh, thì yêu là giữ luật Chúa. Tam đoạn luận này rất chặt chẽ, nó nối kết giữa việc yêu Chúa và giữ luật Chúa lại với nhau.

Vậy giữ giới răn Chúa là gì?  Giữ giới răn Chúa, nói nôm na ra là giữ đạo, là sống đạo, sống nhân đức tin mà Chúa ban cho chúng ta ngày chịu phép Rửa tội.  Chúa nhắc lại đến hai lần: “Nếu các con yêu mến Thầy, các con hãy giữ giới răn của Thầy”, và sau đó Ngài thêm: “Các con là bạn hữu của Thầy nếu các con thực hành điều Thầy truyền dạy”.

Qua lời mời của Chúa, chúng ta thấy rằng giữ giới răn, sống đạo, có thể có hai tâm trạng và hai thái độ: một là giữ đạo vì vụ lợi, giữ đạo cho có lệ gọi là có; hai là giữ đạo vì yêu mến Chúa… Chắc chắn ai cũng giữ đạo vì yêu Chúa, yêu Chúa là chính, còn các mục tiêu khác chỉ là phụ tùy.  Đối với từng người, tình yêu đối với Chúa cũng có cấp độ nên việc giữ giới răn cũng có cấp độ. Ta tạm chia thành ba cấp:

* Một là có đạo: Những người đã được chịu phép rửa tội đều được gọi là có đạo vì họ đã được thanh tẩy, đã được gia nhập Hội thánh Chúa.  Nhưng họ sống hời hợt, chỉ có danh nghĩa là Kitô hữu, còn cuộc sống của họ nhiều khi như người ngoại đạo, thậm chí tệ hơn nữa, họ sống như người vô thần. Có những người chỉ đến nhà thờ 3 lần trong đời họ: ngày chịu phép rửa tội, ngày lễ hôn phối và ngày lễ an táng.

* Hai là giữ đạo: Những người này là những Kitô hữu bình thường, giữ luật Chúa, thi hành các bổn phận của một người Kitô hữu như đọc kinh, xem lề, xưng tội rước lễ, ăn chay kiêng thịt…không có gì đáng trách trong việc giữ đạo… Nhưng họ chỉ sống theo mức bình thường, mức tối thiểu, chưa vươn lên cao hơn.

* Ba là sống đạo: Những người này là những người sống trọn nhiệm vụ của những người Kitô hữu bình thường, nhưng họ còn vươn lên cao hơn, cuộc sống của họ là chứng nhân, những hiện thân của Chúa Kitô. Họ xứng đáng được gọi là Alter Christus. Cuộc sống của họ đã trở nên muối và ánh sáng cho đời. Họ thực hiện lời Chúa Giêsu đã phán: “Sự sáng của các con phải chiếu tỏa ra chung quanh để người ta trong việc lành các con làm mà phải ngượi khen Cha các con ở trên trời”.

4 .Sự sống mới–Lm. Thái Nguyên

Suy niệm

Một người kia nằm mơ gặp một thiên thần đi bộ xuống phố. Một tay ngài cầm bó đuốc, tay kia cầm một xô nước. Anh ta liền hỏi thiên thần: “Ngài đi xuống phố kia làm chi vậy?”.

Thiên thần đáp: “Ta được sai đến để tìm xem ai là người có đức tin và có lòng mến Chúa thực sự”.

Anh ta hỏi tiếp: “Sao Ngài lại phải cầm theo bó đuốc và xô nước?”

Thiên thần đáp: “Ta muốn dùng bó đuốc để thiêu hủy các tòa nhà trên thiên đàng, và dùng xô nước để dập tắt ngọn lửa dưới hỏa ngục”.

Anh lại hỏi: “Nhưng tại sao Ngài lại phải làm như thế?”

Thiên thần trả lời: “Để biết ai thực sự có đức tin và lòng mến Chúa. Một người có đức tin thực sự thì sẽ tuân giữ các giới răn, cho dù ta có phá hủy hy vọng sau này của họ là lên thiên đàng, và phá hủy nỗi sợ của họ sau này sẽ bị sa hỏa ngục đi nữa”.

Câu chuyện giấc mơ trên cho ta hiểu thế nào là đức tin và lòng mến Chúa thực sự. Lòng mến Chúa đích thực thì không đặt ra vấn đề thiên đàng hay hỏa ngục, vì như thế thì động lực của tình yêu mến không còn tinh ròng nữa. Đối với thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu, được yêu Chúa là đủ rồi, dù ở đâu, làm gì, đi đâu, ngay cả khi phải ở trong hỏa ngục mà vẫn được yêu Chúa thì cũng đủ cho chị rồi.

Khi tình yêu đến thì lo âu sợ hãi không còn, như Harry Emerson đã phát biểu như sau: “Sợ hãi thì đe dọa, còn tình yêu lại gọi mời. Sợ hãi thì cầm tù, còn tình yêu lại giải phóng. Sợ hãi thì chua chát, còn tình yêu lại ngọt ngào. Sợ hãi thì gây ra thương tích, còn tình yêu lại chữa lành. Sợ hãi thì luôn lẩn tránh còn tình yêu lại hiện diện”.

Đã yêu thì chỉ còn có một điều là mong sống thật nhiều cho người mình yêu, cụ thể là làm những gì mà người yêu mong đợi. Và Chúa Giêsu đã tỏ lộ ra cho các môn đệ biết: “Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy”. Hay nói một cách khác phổ quát cho tất cả mọi người: “Ai có và giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy”.

Bài Phúc Âm hôm nay là một lời an ủi của Chúa Giêsu dành cho các môn đệ, khi Ngài sắp lìa bỏ thế gian mà về cùng Chúa Cha. Lời an ủi này không đơn thuần là một sự động viên khích lệ, mà là một lời hứa chắc chắn, rằng Người sẽ xin Chúa Cha ban cho các môn đệ một Đấng Bảo Trợ là Chúa Thánh Thần, Người là Thần Khí Sự Thật, sẽ đến ở với các ông. Nhưng điều quan trọng là tình yêu mến trong lòng họ qua việc giữ lệnh truyền của Thầy. Tình yêu ấy làm cho Chúa Cha thương mến họ, cả Ba Ngôi đều ở trong họ, làm nên sự sống mới nơi họ.

Mùa Phục sinh nhắc nhở ta nhìn lại sự sống của Chúa trong mình. Lắm khi ta sống èo uột, khô khan, cằn cỗi, tầm thường, chỉ vì không dám sống giới răn yêu thương, không dám xả thân phục vụ anh chị em, chỉ quanh quẩn với bản thân, và loay hoay với những gì mình muốn có để sống an nhàn thư thái. Còn đời sống đạo thì nhiều khi chỉ lo giữ những điều tối thiểu và vừa đủ để được lên thiên đàng. Nếu như vậy thì chỉ là một thứ đạo thực dụng, giống như chuyện trao đổi ở đời, và như vậy ta xem Đức Kitô cũng chỉ là một vị thần nào đó đóng vai trò thưởng phạt, chẳng khác nào chuyện thần thoại Hy lạp. Không lạ gì mà những người lương dân thấy một số người có đạo mà không thấy có Chúa, thấy người Kitô hữu mà không thấy có Đức Kitô. Điều này có nguy cơ trở thành một thứ đạo mà con người dựng nên Thiên Chúa chứ không phải Thiên Chúa dựng nên con người.

Làm sao cho người khác nhận ra Đức Kitô đang sống, đang hành động trong tôi, đang có mặt ngay trong cuộc sống hôm nay giữa mọi người?

Cầu nguyện

Lạy Cha!

Kitô giáo là tôn giáo của Đấng đã sống lại,

nên Kitô hữu là người đã được phục sinh,

đã đón nhận sự sống mới của Thánh Linh,

nhờ thông hiệp với Đấng đang sống,

là chính Đức Kitô, Chúa chúng con.

Sự sống mới là hồng ân của Chúa ban,

qua việc con lo tuân giữ các luật điều,

không như những chữ ghi khắc bên ngoài,

mà là những lời ghi khắc tận thâm tâm,

để nói lên tấm lòng con yêu mến.

Yêu mến không phải là tình cảm tự nhiên,

được đo lường bằng mức độ thân thiện,

nhưng biểu hiện bằng hành động dấn thân,

với tất cả tự do và tinh thần quả cảm.

Nếu đức tin không hành động là đức tin chết,

thì tình yêu cũng thế,

không thể chỉ là sự mộ mến trong lòng,

nhưng còn chính là hành động,

để khơi sâu mở rộng một đời sống hiệp thông.

Xin cho con cảm nhận được Chúa ở trong lòng,

để con biết sống một cuộc đời phấn khởi,

biết nhiệt tâm đem an bình cho thế giới,

đem niềm vui và thương mến đến mọi nơi.

Xin cho con đừng ngồi đó để chờ thời,

nhưng dám ra đi khơi dậy nguồn sống mới,

cho bao người còn đang sống chơi vơi,

đang gặp khốn khó nguy nan giữa biển đời.

Xin cho con luôn ghi nhớ lời Chúa phán,

luôn biết thực thi điều Chúa dạy,

để luôn nêu cao một tình mến mỗi ngày,

cho tới khi được sum vầy bên Chúa. Amen.

(Trích sách: Lời nguyện của người trẻ, số 46)

5 .Mối tình Châu Long–‘Cùng Nhau Suy Niệm’–Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền

Chuyện cổ tích Việt Nam kể rằng: Có đôi bạn chí thân là Lưu Bình và Dương Lễ. Lưu Bình cùng họ với Lưu Linh. Ham chơi hơn ham học. Dòng dõi giầu sang phú quý nhưng lêu lổng ăn chơi trác táng. Dương Lễ nhà nghèo nhưng ham học. Lấy đèn sách làm thú vui. Nhờ chí thú học hành mà Dương Lễ đã đỗ trạng nguyên làm quan lớn triều đình. Ngược lại, Lưu Bình vì ham chơi nên công không thành và danh thì bại. Thân xác tiều tuỵ và đói khổ bần hàn. Dương Lễ nhìn cảnh bạn sa cơ thất thế nên động lòng trắc ẩn, dầu vậy, bên ngoài ông vẫn làm như không nhìn nhận tình bạn. Ông đã ngầm cho vợ là Châu Long giả dạng là người con gái đến giúp Lưu Bình làm lại cuộc đời. Châu Long đã theo lời chồng đến ở với Lưu Bình để động viên, giúp đỡ Lưu Bình. Nhờ đó mà Lưu Bình đã cố gắng ăn học và sau này cũng thành tài. Về phần Châu Long tuy sống với Lưu Bình nhưng lại không thuộc về Lưu Bình. Nàng vẫn thuộc về Dương Lễ. Nàng vẫn phải trung thành tuyệt đối với Dương Lễ. Cho dù Lưu Bình đã nhiều lần đề nghị nàng kết mối duyên tình, nhưng nàng đã khéo léo từ chối. Nàng khuyên nhủ Lưu Bình hãy chuyên chăm học hành để công thành danh toại mới tính đến chuyện trăm năm. Cho đến khi Lưu Bình thi đỗ mới vỡ lẽ ra: Châu Long chính là vợ của bạn được gởi đến để giúp đỡ mình.

Cuộc đời ky-tô hữu chúng ta cũng giống như nàng Châu Long. Sống giữa thế gian để canh tân đổi mới thế gian nhưng không thuộc về thế gian. Sống giữa thế gian nhưng phải trung thành với thầy Chí Thánh Giêsu. Không để lòng mình buông theo những cám dỗ tội lỗi, những thói đời điêu ngoa, những đam mê thấp hèn. Trong kinh lạy Cha, Chúa Giêsu cũng dạy chúng ta: Hãy xin cùng Chúa Cha gìn giữ chúng ta khỏi sa chước cám dỗ và gìn giữ chúng ta khỏi mọi sự dữ. Chúa không bảo chúng ta xin cùng Chúa Cha cất nhắc chúng ta ra khỏi thế gian, nhưng vẫn ở giữa thế gian, đồng thời vẫn phải trung tín với Chúa. Như Châu Long sống với Lưu Bình để hoàn thành tốt nhiệm vụ mà Dương Lễ đã trao.

Có thể nói, Châu Long phải có một tình yêu thật cao cả, thật thuỷ chung lắm mới có thể sống với Lưu Bình mà vẫn giữ trọn giao ước với Dương Lễ. Người ky-tô hữu cũng phải có một tình yêu thật thâm sâu với Thiên Chúa mới có thể tuân giữ giới răn Chúa khi sống giữa thế gian đầy mời mọc hấp dẫn luôn lôi kéo con người bất trung, phản bội với Chúa. Vâng, chúng ta đang ở giữa một thế gian đầy gian tà, một thế gian sa đoạ, tội lỗi, người ky-tô hữu phải có một tình yêu sắt son trung kiên mới có thể giữ lòng thanh khiết như đoá sen “Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”.

Lời Chúa hôm nay cũng căn dặn chúng ta: “Nếu anh em yêu mến Thầy, thì hãy giữ lời Thầy”. Như thế, tuân giữ giới răn Chúa là dấu chỉ cho lòng yêu mến Chúa. Tuân giữ giới răn Chúa còn là dấu chỉ sự trung tín và chu toàn bổn phận của Chúa giữa thế gian. Không thể nói rằng mình yêu mến Chúa mà lại không dám thực thi lời Chúa. Nếu chúng ta nói yêu mến Chúa mà không dám sống đạo và giữ đạo, đó chỉ là sự giả tạo vì Chúa đã từng trách rằng: “Dân này chỉ thờ Ta bằng môi bằng miệng mà lòng chúng lại xa cách Ta”. Tuân hứa giới răn Chúa không chỉ dừng lại trên môi miệng mà còn là một dấn thân để ý Chúa được thể diện trong cuộc đời chúng ta. Như Chúa Giêsu, ngài đã vâng phục thánh ý Chúa Cha cho đến nỗi bằng lòng chịu chết và chết trên cây thập tự. Người ky-tô hữu cũng phải vâng phục theo giáo huấn của Chúa, cho dẫu có phải chịu thiệt thòi, mất mát hay phải hy sinh cả tính mạng vì lòng yêu mến Chúa.

Nhìn vào thế gian hôm nay với bao nhiêu cám dỗ mời mọc, bao nhiêu cạm bẫy rình chờ, khiến đức tin của chúng ta đã nhiều lần chao đảo, muốn buông xuôi theo cám dỗ của tiền tài, danh vọng và thú vui thể xác. Giữa một thế giới có quá nhiều cám dỗ hưởng thụ, làm sao chúng ta có thể trung thành với Chúa? Có lẽ vì nguyên nhân đó, mà Chúa Giêsu đã hứa ở cùng chúng ta, đồng thời, ngài còn ban Thần Khí đến cho chúng ta. Ngài sẽ an ủi khi chúng ta gặp u buồn. Ngài sẽ soi sáng khi lòng trí chúng ta gặp hoang mang, lo lắng. Ngài sẽ nâng đỡ khi bước đường chúng ta gặp gian nan. Ngài sẽ ban sức mạnh khi chúng ta cần sức mạnh để vượt qua cám dỗ tội lỗi và làm lại cuộc đời. Ngài sẽ ban cho chúng ta những ơn cần thiết để chúng ta hoàn thành sứ mạng cuộc đời như một tôi tớ trung tín và khôn ngoan, vì Chúa đã hứa hằng: “Ơn Ta đủ cho người và quyền năng Ta hiển trị nơi sự yếu hèn của con”.

Nguyện xin Chúa Kytô Phục sinh luôn đồng hành với chúng ta và chúc lành cho cuộc đời chúng ta luôn bình an để chúng ta mãi trung thành với Chúa. Amen.

6 .Ngôi Lời tỏ tình yêu Thiên Chúa–Pm. Cao Huy Hoàng

Chung quanh chúng ta và ngay trong chúng ta, còn có rất nhiều người không tin có Thiên Chúa, nhưng họ tin có Tình Yêu. Họ cũng đang yêu, đang khát khao được yêu. Họ đang sống nhờ tình yêu vợ chồng, cha mẹ, anh em, bạn hữu, và cả tình yêu tha nhân cộng đồng. Họ không thể thiếu tình yêu, nhưng họ chưa nhận ra Thiên Chúa vì họ vẫn cho rằng tình yêu trong mỗi con người là một khả năng tự nhiên, một nhu cầu tự nhiên. Họ không hiểu được cội nguồn siêu nhiên của tình yêu là Thiên Chúa, và có thể, họ đã thể hiện cách yêu tự nhiên ở một cấp độ dưới bản tính con người.

Kitô hữu công giáo được Chúa Giêsu mạc khải cho biết cội nguồn của tình yêu là Thiên Chúa và thật là diemx phúc khi được tuyên tín mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi, mầu nhiệm trung tâm của các mầu nhiệm khác. Lý trí con người không thể hiểu thấu mầu nhiệm, vì mầu nhiệm chỉ được hiểu thấu khi con người chấp nhận để chính mình tan hòa trong mầu nhiệm ấy: Hòa Tan Trong Tình Yêu Ba Ngôi.

Bài tin mừng hôm nay-trong diễn từ từ biệt của Chúa Giêsu, trước lúc vào cuộc thương khó- được Mẹ Giáo Hội đưa vào tin mừng phụng vụ chuẩn bị cho việc Chúa Giêsu về trời, cho thấy sự viên mãn của tình yêu Ba Ngôi đến mức tuyệt hảo. Nội dung bài Tin Mừng, Chúa Giêsu đưa ra cho các tông đồ lời mời gọi tan hòa vào mầu nhiệm Ba Ngôi hơn là giải thích để hiểu được mầu nhiệm ấy. Đời sống và bản chất nội tại của Thiên Chúa Ba Ngôi được Chúa Giêsu ân cần bày tỏ trong lúc chuẩn bị rời bỏ các tông đồ, để các ông được tháp nhập vào mầu nhiệm của chính Chúa Giêsu trong mầu nhiệm Thiên Chúa: “Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các giới răn của Thầy. Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Ðấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi”(Ga 14,15-16). Lời tình tha thiết Chúa Giêsu muốn dặn dò các tông đồ là yêu mến và tuân giữ giới răn Người, để được Chúa Cha yêu thương và ban cho Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần sẽ làm cho Lời Chúa Kitô tồn tại trong thế gian, và trong mỗi tâm hồn; sẽ làm cho Lời Chúa Kitô trở nên nguồn sống dồi dào và sống động cho giáo hội và cách riêng cho mỗi tâm hồn sẵn sàng đón nhận Ngài như Đấng Bảo Trợ cho ơn cứu rỗi của mình; sẽ làm cho chúng ta khi đón nhận Ngài, trở nên can đảm sống Lời Chúa Kitô và hiên ngang làm chứng cho Thiên Chúa. Vì “Ðó là Thần Khí sự thật, Ðấng mà thế gian không thể đón nhận, vì thế gian không thấy và cũng chẳng biết Người. Còn anh em biết Người, vì Người luôn ở giữa anh em và ở trong anh em”(Ga 14,17). Ôi! Còn hạnh phúc nào bằng khi được sống trong tình yêu vô biên của Ba Ngôi Thiên Chúa: yêu như Chúa Giêsu yêu, dưới ánh sáng của Thánh Thần, để dìm mình trong tình yêu Thiên Chúa Cha. Còn hạnh phúc nào bằng khi tình yêu của Chúa Giêsu vẫn luôn liên tục, không gián đoạn, mà còn dồi dào hơn và kéo dài cho đến ngày Người lại đến: “Ngày đó, anh em sẽ biết rằng Thầy ở trong Cha Thầy, anh em ở trong Thầy, và Thầy ở trong anh em. Ai có và giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy. Mà ai yêu mến Thầy, thì sẽ được Cha của Thầy yêu mến. Thầy sẽ yêu mến người ấy, và sẽ tỏ mình ra cho người ấy”(Ga 14,20-21).

Tình yêu của Chúa Giêsu trong mầu nhiệm Thiên Chúa thật tha thiết và Ngài tỏ bày tình yêu ấy cách trọn vẹn chu đáo cho các tông đồ, cùng là cho mỗi chúng ta hôm nay. Mỗi người được mời gọi tháp nhập vào mầu nhiệm Thiên Chúa qua việc Yêu mến Chúa Giêsu và tuân giữ điều răn Người.

Nếu yêu mến Chúa Giêsu mà không tuân giữ điều răn của Người, thì không thể đón nhận thần khí, càng không thể đi vào huyền nhiệm tình yêu của Thiên Chúa Cha.

Yêu mến Chúa Giêsu và tuân giữ điều răn Người là yêu như Người đã yêu: Yêu thương người khác để người khác được sống và được sống lại

Nếu tình yêu của chúng ta là động lực để người khác sống được chỉ ở đời nầy mà thôi, thì ấy chưa phải là tình yêu của Chúa Giêsu. Việc bác ái đối với tha nhân nếu chỉ dừng lại ở việc xây cái nhà tình nghĩa, giúp đồng vốn vượt khó, giúp xóa nợ lâu năm… thì có thể nói, cũng chưa phải là việc bác ái Kitô giáo đúng nghĩa. Tình yêu Chúa Giêsu đòi hỏi vượt xa hơn thế nữa: yêu người để người được sống và được phục sinh. Vì thế, làm cho người khác có một cuộc sống mới, cuộc sống bình an thánh thiện, cuộc sống phục sinh ngay ở đời nầy là tiêu chuẩn của tình yêu và việc bác ái mà Chúa Giêsu muốn chúng ta thực hiện. Rất tiếc, ở những đất nước đang sống trong một nền giáo dục không Thiên Chúa, con người cũng có tình yêu, tình yêu cũng được giáo dục, nhưng là loại tình yêu tự nhiên dừng lại ở những gì cho nhau ở đời nầy, và hầu như không màng đến cái chung cuộc ở đời sau. Thế hệ trẻ được giáo dục yêu nhau như người lớn đã yêu, và đã chết, không cần biết đi về đâu, miễn là đã yêu và đã sống trong cuộc đời nầy thoải mái. Tình yêu ấy, cách yêu ấy không phải là cách yêu của Chúa Giêsu, vì không bắt nguồn từ Thiên Chúa và càng không thể nào dẫn đến sự tan hòa trong cội nguồn tình yêu là ba ngôi Thiên Chúa để tình yêu ấy sống, và sống mãi muôn đời.

Để gia đình được sống trong tình yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa, vợ chồng không chỉ yêu thương tôn trọng chung thủy và lo lắng cho nhau sống hạnh phúc đời nầy; cha mẹ không chỉ hy sinh lo cho con cái có cái ăn, cái mặc, cái chữ…mà còn lo cả nhà sum họp trên nước trời, về với tình yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa. Yêu như Chúa Giêsu là làm cho người khác sống và sống lại. Giữa xã hội tôn thờ vật chất ngày nay, đây là một thách thức không nhỏ. Giữa nền giáo dục loại trừ Thiên Chúa ra khỏi lòng trí con người, đây là một thách thức không nhỏ. Nhận định của ban giáo lý GP. Qui nhơn: “Không còn trường Công Giáo. Xuất thân từ trường nhà nước, các bạn trẻ từ 40 tuổi trở xuống đã được trang bị những cái nhìn về Thiên Chúa, về con người, về vũ trụ, về lịch sử, về xã hội và về cuộc sống rất khác với cái nhìn Kitô giáo” làm cho những người làm cha mẹ phải nghĩ đến vế thứ hai của tình yêu Chúa Giêsu “yêu làm cho người khác phục sinh”. Người khác ấy chính là người bạn đời, con cái mình, trước tiên. Không chỉ người trẻ, mà có cả người lớn, cũng cần nhìn lại thực trạng đau lòng nầy: người ta cũng đang yêu, nhưng là tình yêu đưa nhau vào hố thẳm của tội lỗi, của sự chết ngàn thu; nhưng là tình yêu vun quén cho chính mình, cho tập đoàn mình, cho những người đồng tình, đồng phe, đồng đảng với mình những mối lợi mối mọt có thể gặm nhấm, những kho tàng không có sức phục sinh; nhưng là tình yêu thỏa mãn những thú tính…. Tình yêu phải là hoa quả của việc kết hiệp bản thân với Thiên Chúa, tiến đến việc giúp nhau nên thánh thiện nhờ việc tuân giữ toàn bộ Lời Chúa Giêsu trong tin mừng, để được chiếm hữu tình yêu ba ngôi Thiên Chúa, để được sum họp với nhau một nhà ở đời sau, ấy mới là tình yêu của một nền giáo dục Kitô Giáo, tình yêu mà Chúa Giêsu tha thiết dặn dò trên trang Tin Mừng hôm nay.

Trở lại với trào lưu có tình yêu mà không tin có Thiên Chúa, và qua những suy tư trên đây, chúng ta có thể thấy được một âm mưu của thế lực chống lại Thiên Chúa dùng chính tình yêu làm nhản hiệu cho một công cuộc thoái hóa, hoặc chống lại tình yêu đích thực. Sự rạn nứt nội tại nơi tâm hồn các tín hữu bắt nguồn từ tình yêu dành cho thế gian, vật chất nhiều hơn dành cho Thiên Chúa và dần dần lề luật của Thiên Chúa, lời dạy của Tin Mừng, bóng dáng của Thiên Chúa cũng mờ dần trong tâm trí họ-mờ dần rồi biến mất lúc nào không hay biết.

Vì thế, việc chân thành khao khát sống kết hiệp với Chúa Giêsu, giữ Lời Chúa dạy trong Tin Mừng làm mực thước, rước lấy Thánh Thể Chúa làm sức sống thiêng liêng mới là bảo đảm cho phần rỗi chúng ta và bảo đảm cho việc thực hiện các điều răn Chúa dạy, nhất là đức ái. Nói một cách khác, trước khi yêu người như Chúa muốn, hẳn chúng ta phải yêu Chúa để sống và yêu được như Chúa yêu, thì tình yêu cho đi, thì việc thực hiện các điều răn của Chúa mới thực mang lại cho chúng ta một giá trị cao cả: sống trong mầu nhiệm tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi. Yêu mến Chúa Giêsu để nên thánh: chiếm hữu được Thiên Chúa. Tuân giữ điều răn Chúa: giúp cho người khác nên thánh, giúp cho người khác chiếm hữu được Thiên Chúa. Nếu không, hãy coi chừng tình yêu và việc bác ái của ta lại rơi vào kế hoạch của những giả dối, dẫn đến cái vô ích cho mình và cho tha nhân.

Lạy Chúa, chúng con thật diễm phúc được Chúa Giêsu dạy cho chúng con cách sống yêu, để cuộc đời chúng con nên một chuỗi ngày hạnh phúc vì khi sống yêu, là chúng con sống trong mầu nhiệm tình yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa chí ái. Xin cho chúng con biết yêu mến Chúa Giêsu và tuân giữ điều răn Người dạy để Lời Mạc Khải, Lời Tỏ Tình Thiên Chúa của Người không trở nên uổng phí cho phần rỗi chúng con. Amen.

7 .Chân lý… ở với các con và ở trong các con–Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh

Bài Phúc Âm Chúa Nhật VI Mùa Phục Sinh hôm nay tiếp tục chủ đề “Thày là sự sống” như hai Chúa Nhật Phục Sinh IV và V trước đây, cũng như Chúa Nhật Phục Sinh VII tới đây. Nếu chủ đề “Thày là sự sống” của Chúa Nhật IV Phục Sinh liên quan đến tác giả sự sống là “chủ chiên”, và của Chúa Nhật V Phục Sinh liên quan đến tác động sự sống là “tin”, thì của Chúa Nhật VI tuần này liên quan đến tác nhân sự sống là Thánh Thần. Thật vậy, nếu “Chúa Thánh Thần là Đấng ban sự sống”, như Kinh Tin Kính tuyên xưng, thì quả thực, không có Ngài là “mạch nước vọt lên sự sống đời đời” (Jn 4:14; x 7:37-39), không ai có thể” được sự sống và là một sự sống viên mãn hơn” (Jn 10:10). Mà “sự sống đời đời là nhận biết Cha là Thiên Chúa chân thật duy nhất và Đấng Cha sai là Giêsu Kitô” (Jn 17:3), nên “Chúa Thánh Thần là Đấng ban sự sống” tức Ngài là Đấng làm cho con người “tin vào Thiên Chúa và tin ở nơi Thày” (Jn 14:1), làm cho họ “tin rằng Thày ở trong Cha và Cha ở trong Thày” (Jn 14:11).

Đó là lý do, trong bài Phúc Âm hôm nay, Lời Nhập Thể đã gọi Thánh Thần là “Thần Chân Lý”, “Đấng thấu suốt mọi sự, kể cả thâm tâm Thiên Chúa” (1Cor 2:10). Như Ngài chỉ “là Đấng ban sự sống” chứ không phải là chính “sự sống” giống Lời Nhập Thể (Jn 14:6, 11:25; x 1Jn 5:11-12) thế nào, Ngài cũng không phải là “chân lý” như Lời Nhập Thể, “hiện thân đích thực của bản thể Cha” (Heb 1:3), mà chỉ là “Thần Chân Lý”, Vị Thần Linh của cả Cha lẫn Con, như Con Mắt Thần Linh nơi Nội Tâm Thiên Chúa, hay chính là Ý Thức Thần Linh nơi Thiên Chúa, khiến Cha biết Con và Con biết Cha. Tâm linh nơi con người “được dựng nên giống như và tương tự Thiên Chúa” (Gen 1:26) là ý thức của con người về bản thân mình thế nào, như Adong ý thức được bản thân mình nơi Evà (x Gen 2:23), thì Thần Linh hay Thánh Linh nơi Thiên Chúa cũng là chính Ý Thức Thiên Chúa biết mình như vậy.

Phải chăng Thần Linh hay Thánh Linh nơi Thiên Chúa cũng là chính Ý Thức Thiên Chúa biết mình như vậy mà Giáo Hội Chính Thống Đông Phương chỉ chấp nhận công thức Thánh Thần duy “bởi Cha mà ra”? Còn việc Giáo Hội Công Giáo Rôma lại thêm cả “bởi Con mà ra”, cũng không phải là hoàn toàn vô lý, sai tín lý thần học, vì Lời Nhập Thể là Chúa Giêsu Kitô, khi “tỏ Cha ra” (Jn 1:18) không phải là Người đã cho thấy Ý Thức Thần Linh của Người về Cha hay sao? Bởi thế, công thức tuyên xưng Chúa Thánh Thần của Giáo Hội Công Giáo là “Người bởi Chúa Cha và Chúa Con mà ra” hoàn toàn đúng với mạc khải: “Không ai biết Con trừ ra Cha (“Người bởi Chúa Cha”) và cũng không ai biết Cha trừ ra Con (“và Chúa Con mà ra”)” (Lk 10:22): “Cha Tôi biết Tôi (“Người bởi Chúa Cha”) và Tôi biết Cha Tôi (“và Chúa Con mà ra”)” (Jn 10:15) là như thế. “Tất cả mọi sự Cha có đều là của Con” (Jn 16:15) ở đây chẳng những cho thấy Lời Nhập Thể “là hiện thân sống động của bản thể Cha” (Heb 1:3), mà còn cho thấy cả thực tại Cha và Con cũng chỉ có cùng một Ý Thức Thần Linh.

Thần Chân Lý từ Lời Nhập Thể

Chính vì Con có cùng một Ý Thức Thần Linh với Cha như thế mà khi “hóa thành nhục thể” (Jn 1:14), nhân tính của Lời Nhập Thể mới “đầy ân sủng và chân lý” (Jn 1:14), và Người mới chính là Đấng “rửa trong Thánh Linh” (Jn 1:33), tức là Đấng làm cho nhân loại nói chung và Nhiệm Thể Giáo Hội nói riêng không còn sống “trong tối tăm và bóng sự chết” (Lk 1:79), song “được ánh sáng sự sống” (Jn 8:12) là được có cùng một Ý Thức Thần Linh như Người và như Cha. Đó là ý nghĩa sâu xa của lời Chúa Giêsu nói với các tông đồ trong bài Phúc Âm hôm nay: “Vào ngày ấy các con mới biết rằng Thày ở trong Cha Thày, các con ở trong Thày và Thày ở trong các con”. Cũng bởi Ý Thức Thần Linh này, một Ý Thức cũng chính là Thực Tại Hiệp Thông Thần Linh nơi chính Nội Tâm Thiên Chúa, mà các môn đệ của Lời Nhập Thể mới có thể được ở trong một tình trạng liên lỉ Thần Hiệp, như Chúa Giêsu trong bài Phúc Âm hôm nay đã cho các vị biết ngay trước đó, là “Một ít lâu nữa thôi thế gian sẽ không còn thấy Thày đâu cả, nhưng các con lại thấy Thày như một Đấng có sự sống và các con cũng có sự sống”.

Và Lời Nhập Thể đã thông ban Ý Thức Thần Linh của Người cho chung nhân loại nơi nhân tính của Người cũng như cho riêng Giáo Hội là Nhiệm Thể của Người thế nào, nếu không phải bằng Cuộc Tử Giá của Người, tức bằng việc Người “ra đi dọn chỗ cho các con”, như Người nói đến trong bài Phúc Âm tuần trước. Và kết quả của việc Người “ra đi dọn chỗ cho các con” đó là, như Người tiết lộ tiếp trong cùng bài Phúc Âm tuần trước, việc “Thày sẽ trở lại mang các con đi với Thày, để Thày ở đâu các con cũng ở đó”, nghĩa là các con cũng có cùng một Ý Thức Thần Linh “với Thày”, tức được Hiệp Thông Thần Linh, “như Thày ở trong Cha, các con ở trong Thày và Thày ở trong các con”. Đúng thế, Lời Nhập Thể, sau khi sống lại từ trong kẻ chết, “vào buổi tối ngày thứ nhất trong tuần” (Jn 20:19), đã chẳng “trở lại” hay sao, khi “đến đứng giữa các môn đệ” (Jn 20:19), và cũng đã không “mang các con đi với Thày” hay sao, ở chỗ “tỏ cho các vị thấy đôi tay và cạnh sườn của Người” (Jn 20:20), “để Thày ở đâu các con cũng ở đó” hay sao, ở chỗ “Người thở hơi trên các vị mà nói: “Các con hãy nhận lấy Thánh Thần”” (Jn 20:22)? “Thày không để các con mồ côi; Thày sẽ trở lại với các con” là thế, đúng như lời Người hứa trong bài Phúc Âm hôm nay. Thế nhưng, Lời Nhập Thể đã trở lại với các môn đệ của Người không phải theo hình thức như trước Cuộc Tử Giá nữa, không phải bằng sự hiện diện thể lý nữa, mà là bằng sự Hiện Diện Thần Linh, sự hiện diện của “một Đấng Cố Vấn khác”, Đấng Người nói đến ở bài Phúc Âm hôm nay, “đó là Thần Chân Lý”, Đấng “ở với các con và ở trong các con”.

Thần Chân Lý nơi các Môn Đệ

Phần các môn đệ, nếu không có “Thần Chân Lý … ở với và ở trong” là Ý Thức Thần Linh được Đấng Tử Giá Phục Sinh ban cho này, các vị không thể nào mở miệng tuyên xưng như tông đồ Tôma “Lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa tôi” (Jn 1:28), nghĩa là không thể “tin vào Thiên Chúa và tin ở nơi Thày”, như Chúa Giêsu đã kêu gọi các vị trong bài Phúc Âm tuần trước. Đó là lý do, theo Phúc Âm Thánh Luca, đoạn Phúc Âm cũng thuật lại việc Chúa Kitô Phục Sinh hiện ra với các tông đồ vào buổi tối ngày thứ nhất trong tuần như ở Phúc Âm Thánh Gioan, các môn đệ chỉ thực sự nhìn nhận Thày mình đã phục sinh sau khi Người ban cho các vị Ý Thức Thần Linh của Người mà thôi: “Thế rồi Người đã mở tâm trí họ ra để hiểu được những lời Sách Thánh” (Lk 24:45). Như thế, phải chăng thông hiểu Thánh Kinh là dấu chứng tỏ con người thực sự có Ý Thức Thần Linh, có “Thần Chân Lý ở với và ở trong”? Vì Thánh Kinh là những gì liên quan đến Mạc Khải Thần Linh về Mầu Nhiệm Tỏ Mình của Thiên Chúa Ba Ngôi: Cha ở trong Con và Con ở trong Cha, hay Con Ý Thức Cha và Cha Ý Thức Con, một Ý Thức cũng là Thánh Thần được Thiên Chúa tỏ ý muốn thông ban cho con người, để con người có thể Ý Thức Thần Linh hay Hiệp Thông Thần Linh (x 1Jn 1:3). Bằng không, Giáo Hội làm sao có thể biết được bản văn nào thực sự được Thiên Chúa linh ứng để chọn và lập thành sổ bộ Thánh Kinh như hiện nay, và làm sao Giáo Hội có thể “đi rao giảng tin mừng cứu độ cho tất cả mọi tạo vật” (x Mk 16:15)? Đúng thế, nếu thực sự con người có Ý Thức Thần Linh, có “Thần Chân Lý ở với và ở trong”, họ mới có thể hiểu thấu những gì Lời Nhập Thể cần phải nói hơn nữa (x Jn 16:12), hay mới có thể hiểu được chính xác những gì Lời Nhập Thể muốn nói, muốn con người hiểu, nhờ đó, họ được Hiệp Thông Thần Linh: “Các con ở trong Thày và Thày ở trong các con”.

Bởi vậy, bất cứ kiến thức đức tin hay hiểu biết thần học nào, dù có dựa vào Mạc Khải Thánh Kinh, nhưng lại đưa thành phần kinh sư này, thành phần thần học gia này, dù có lỗi lạc đến mấy đi nữa, tới chỗ bất tuân phục Giáo Hội, đến chỗ giảng dạy những gì phản với giáo huấn tông truyền của Giáo Hội, thì không phải bởi “Thần Chân Lý”, mà là do bởi tinh thần “phản kitô… không tin Chúa Kitô đến trong xác thịt” (1Jn 22-23; 2Jn 7), thứ tinh thần của một “thế gian không thể chấp nhận Thần Chân Lý, vì họ không thấy cũng chẳng nhận biết Ngài”, như Chúa Kitô nói đến trong bài Phúc Âm hôm nay. Satan cũng đã không thông thuộc và dựa vào những lời Thánh Kinh theo tinh thần “phản kitô” hay sao, như những đoạn Phúc Âm Nhất Lãm thuật lại ở biến cố Chúa Giêsu bị cám dỗ trong hoang địa cho thấy? Bởi vậy, thành phần thực sự có Ý Thức Thần Linh phải là thành phần được Chúa Giêsu nhắc đến khi Người thân thưa cùng Cha Người như sau: “Lạy Cha là Chúa trời đất, con chúc tụng Cha, vì những gì Cha đã giấu thành phần thức giả và tinh khôn thì Cha lại tỏ cho những con trẻ bé mọn nhất biết” (Mt 11:25), tức là thành phần được Chúa Giêsu nói đến ở phần mở và kết bài Phúc Âm hôm nay: “vâng giữ các mệnh lệnh Thày truyền” hay “vâng giữ các lệnh truyền đã lãnh nhận từ Thày”.

Vấn đề thực hành sống đạo:

Theo nguyên tắc “vô tri bất mộ”, nghĩa là trước khi nghe lời ai, tuân giữ mệnh lệnh hay lệnh truyền của ai thì phải biết người đó, phải mộ mến người đó đã. Mà, theo Mạc Khải Phúc Âm được phân tích trên đây, con người cần phải có Ý Thức Thần Linh, có “Thần Chân Lý… ở với và ở trong” đã mới có thể nhận biết Lời Nhập Thể, nhờ đó và sau đó mới có thể “vâng giữ các mệnh lệnh Thày truyền” hay “vâng giữ các lệnh truyền đã lãnh nhận từ Thày”. Vậy mà sao, cũng trong chính bài Phúc Âm hôm nay, “Chúa Giêsu nói với các môn đệ rằng: “Nếu các con yêu mến Thày và vâng giữ các mệnh lệnh Thày truyền cho các con, Thày sẽ xin Cha và Ngài sẽ ban cho các con một Đấng Cố Vấn khác để ở cùng các con luôn mãi, đó là Thần Chân Lý…”; “Ai yêu mến Thày sẽ được Cha Thày yêu. Cả Thày cũng yêu họ nữa và tỏ mình ra cho họ”. Như thế phải chăng việc con người tuân giữ mệnh lệnh của Chúa Giêsu Kitô chính là việc làm phát sinh ra Ý Thức Thần Linh, tức là việc làm con người có được “một Đấng Cố Vấn khác là Thần Chân Lý”?

Chúng ta nên nhớ một điều ở đây là, trước hết, không phải ai cũng có thể “vâng giữ” hay muốn “vâng giữ” hoặc “vâng giữ” được “các lệnh truyền” hay “các mệnh lệnh” của Chúa Giêsu Kitô. Vậy kẻ nào “vâng giữ” được các mệnh lệnh hay các lệnh truyền của Chúa Kitô, thì người đó phải là người đã biết lấy gậy Đức Tin đập vào tảng đá Lời Chúa để từ tảng đá, từ Lời Chúa, vọt ra Mạch Nước Thần Linh (x Ex 17:6; Num 20:11). Bởi vì, tự mình, Lời Nhập Thể vốn “đầy ân sủng và chân lý” nơi nhân tính của Người, một Tảng Đá đầy Nước Thần Linh, chỉ cần đến với Người, “đập” vào Người, chạm vào Người, đụng vào Người, sờ vào Người (x 1Jn 1:1), qua tác động “chấp nhận Người” (Jn 1:12), được thể hiện bằng việc cụ thể là “vâng giữ các mệnh lệnh Thày truyền”, như người đàn bà loạn huyết “sờ đến gấu áo Người” (Mk 5:28-30) liền được sức mạnh từ Người thoát ra chữa lành. Như thế, nếu Ý Thức Thần Linh được trực tiếp phát sinh từ Tảng Đá Lời Chúa, từ Lời Nhập Thể, từ “Tảng Đá bị thợ nề loại ra đã trở thành Tảng Đá Góc Tường” (Acts 4:11), thì “việc vâng giữ các mệnh lệnh Thày truyền” chỉ là việc con người tỏ ra về phần mình muốn “ở trong Thày”, nghĩa là muốn “được sự sống”, nhờ đó để được “Thày ở trong họ”, nghĩa là muốn “được sự sống viên mãn hơn” (Jn 10:10).

8.Nếu nói yêu Thầy, mà không giữ lời Thầy, là mâu thuẫn–Jos. Vinc. Ngọc Biển

Khi nói đến tình yêu, ai cũng biết nó là một khái niệm trừu tượng, vô hình, không thể nhìn thấy bằng giác quan. Tuy nhiên, nó lại hiện diện trong những gì là hữu hình. Nếu không chấp nhận sự hiện hữu của nó qua hành động thì tình yêu không còn chỗ đứng đúng nghĩa. Cũng thế, tôi không thể yêu một cái gì đó, như bông hoa, con chim… mà trước đó tôi không hề biết gì về nó hay không hề có một khái niệm nào về chúng. Còn khi nói về tình yêu giữa người với người, chúng ta không thể nói tôi yêu người này, người kia mà tôi lại chưa một lần nghe kể, giáp mặt với người đó! Yêu nhau, chẳng lẽ lại bảo tôi yêu trong tư tưởng, tôi yêu trong khái niệm…??? Khi nói về tình yêu, chúng ta không có một định nghĩa nào mang tính chuẩn mực cho mọi tình huống, nhưng chỉ có một điều cụ thể: tình yêu là tổng hợp của cả hồn lẫn xác.

Hôm nay, bài Tin Mừng cho thấy, Đức Giêsu làm một cuộc trắc nghiệm và cũng như một điều kiện để biết được tình yêu của các môn đệ và cũng là của mỗi chúng ta với Ngài đang ở trong tình trạng như thế nào?.

Yêu mến và giữ Lời Chúa

“Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy” (Ga 14, 15). Lời nhắn nhủ này mang đượm tình nghĩa Thầy trò và có giá trị thiêng liêng khi mà tình cảnh chia ly sắp xảy ra với Đức Giêsu và các môn sinh trên bình diện tự nhiên để chuyển dần sang khía cạnh siêu nhiên.

Kẻ đi, người ở, biết bao là luyến tiếc, nhớ thương! Tuy nhiên, để hình ảnh của Thầy không bị lu mờ; tinh thần của Thầy không rơi vào quên lãng thì việc làm cho lời của Thầy sống động trong cuộc đời qua hành vi của mình là điều quan trọng. Chính vì thế, Đức Giêsu nói: “Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy” (Ga 14, 15).

Yêu, giữ và thực hành lời của ai, thì cho dù người đó không còn hiện hữu trên bình diện tự nhiên, thì khí cạnh siêu nhiên họ vẫn sống qua cuộc đời và nơi hành vi của người yêu còn sống. Cũng vậy, khi các môn đệ yêu mến và giữ lời Đức Giêsu truyền dạy, thì các môn đệ trở nên hiện thân của chính vị Thầy mà mình là những người đang tiếp bước.

Quả thật, như một hệ luận, khi lắng nghe và giữ lời của Đức Giêsu, ấy là lúc các môn đệ được đi vào trong trung tâm của tình yêu. Được trở nên những người công chính và Thiên Chúa sẽ công chính hóa những ai yêu mến Lời của Đức Giêsu cách trung thành và đầy lòng mến.

Yêu và hành động

Yêu mến…. thì sẽ thực thi…. phải luôn gắn liền với nhau. Yêu mến Đức Giêsu thì hẳn phải thực thi lệnh truyền của Ngài, mà lệnh truyền đó đã được Đức Giêsu gói trọn trong hai giới răn: “Mến Chúa và yêu người”. Yêu mến Thiên Chúa và thương yêu anh em đồng loại là hai mặt của một tình yêu. Thánh Gioan đã nói rất rõ: “Ai nói rằng mình biết Người mà không tuân giữ các điều răn của Người, đó là kẻ nói dối” (1 Ga 2, 4).

Đức Giêsu không chấp nhận một tình yêu trên bình diện lý thuyết, từ chương, hay một thứ tình yêu “cưỡi mây về gió”; hoặc“mông lung”. Vì thế, đã có nhiều lần Đức Giêsu phản đối những kinh sư và người Phrisêu: “Dân này Kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta” (Mt 15, 8); hay khi nói về tình yêu giả tạo, hào nhoáng, hình thức, Ngài nói: “Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và người Phrisêu giả hình! Các người giống như mồ mả tô vôi, bên ngoài có vẻ đẹp, nhưng bên trong thì đầy xương người chết và đủ mọi thứ ô uế” (Mt 23, 27), bởi vì họ là những người “ngôn hành bất tất”.

Như vậy, Đức Giêsu căn dặn các môn đệ là phải yêu và thực hành tình yêu đó cách chân thật, vô vị lợi, dán chấp nhận hy sinh vì người mình yêu. Tình yêu đó được chính Đức Giêsu đã hành động, đi qua và Ngài đưa ra lời mời gọi: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13, 34). Yêu như chính thầy là gì, nếu không phải là một tình yêu tự hủy, khiêm tốn, phục vụ và hiến dâng mạng sống vì người mình yêu.

Tình yêu của Đức Giêsu là tình yêu của người Tôi Trung với Thiên Chúa Cha và chiếu tỏa trên tha nhân trong vai trò là Đấng Cứu Chuộc.

Cùng một con đường, chung cách thể hiện, Đức Giêsu cũng mời gọi các môn đệ tiếp bước trên con đường mà Ngài đã đi, để tình yêu đó được nối dài, sống động và phong phú chứ không phải thứ tình yêu đóng khung, cứng ngắc.

Khi yêu như thế, các môn đệ đi vào trong một quỹ đạo của một tình yêu lớn hơn, được sống trong đó và tận hưởng tình yêu một cách sung mãn: “Ai có và giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy. Mà ai yêu mến Thầy, thì sẽ được Cha của Thầy yêu mến. Thầy sẽ yêu mến người ấy và sẽ tỏ ra cho người ấy biết Thầy” (Ga 14,21).

Như vậy, chữ “nếu” không có nghĩa rộng là thích thì làm, không làm cũng chẳng sao. Nhưng chữ “nếu ” mà Đức Giêsu muốn nói ở đây phải hiểu theo nghĩa hẹp, tức là điều kiện thiết yếu, không có không được. Chữ “nếu” ở đây liên kết hai mặt của một tình yêu, nó đóng vai trò trung gian duy nhất để như một điều kiện cần phải có: “yêu Chúa” và“giữ lời Ngài” để từ đó phát sinh hệ luận là “yêu tha nhân như chính Thầy” (x. Ga 13, 34).

Như vậy, Đức Giêsu xác định thật rõ rằng: tình yêu chân chính thì phải được biểu lộ qua hành động. Không thể yêu cách vu vơ, chung chung…

Sống lời dạy của Đức Giêsu trong đời sống kitô hữu

Thánh Giacôbê đã nói: “Đức tin không có hành động là đức tin chết” (Gc 2, 26). Tin Chúa, đi theo Chúa và yêu mến Chúa thì phải giữ lời và thi hành những gì Ngài truyền dạy. Đây là một điều khó khăn, không dễ. Nó đòi hỏi con người phải cố gắng, phải từ bỏ và phải yêu mến lời thực sự: “Gặp được lời Chúa, con đã nuốt vào, Lời Ngài làm cho con hoan hỷ, làm vui thoả lòng con, vì con được mang danh Ngài” (Gr 15,16).

Sống trong thời buổi ngày nay, chúng ta cần phải trung thành với lời Chúa và can đảm thực thi Lời ấy trong cuộc sống, làm cho lời Chúa trở nên thực sự sống động qua cuộc đời chứng tá của mỗi chúng ta.

Ngày chúng ta lãnh nhận Bí tích Thánh Tẩy, chúng ta thuộc về Đức Kitô. Trở thành môn đệ của Ngài. Như thế, điều mà Đức Giêsu muốn các môn đệ khi xưa cũng là điều mà Ngài muốn mỗi người chúng ta thi hành.

Thật vậy, chúng ta không thể nói yêu Chúa trên đầu môi chóp lưỡi. Yêu như thế là tình yêu giả tạo. Yêu như thế là chúng ta đang xúc phạm đến bản chất của tình yêu giữa ta với Đức Giêsu. Ca dao tục ngữ Việt Nam có câu:

“Thương thương nhớ nhớ thương thương,

Nước kia muốn chảy mà mương chẳng đào”. (Ca dao)

Nói yêu, nhưng không khai thông tình yêu đó bằng hành động thì chỉ như là một thứ tình yêu đất đá mà thôi.

Tuy nhiên, trái tim trai cứng, vô cảm này lại quá nhiều trong thời đại chúng ta. Nếu có ai đặt một câu hỏi: “Ông, bà anh chị em có yêu và tin Chúa không?” Có lẽ nhiều người trả lời là “có”, nhưng cũng không ít người khinh thường người hỏi, vì cho rằng câu hỏi đó vớ vẩn! Có đạo mà lại không yêu Chúa thì phải chăng là người dở hơi! Nhưng nếu hỏi tiếp: “Vậy ông bà, anh chị em, giữ đạo hay sống đạo?” Tới đây, chúng ta bắt đầu khựng lại và có lẽ cảm thấy xấu hổ vì nhiều khi niềm tin của chúng ta ở trong chứng minh thư, trong sổ rửa tội, còn ở trong tâm, được thể hiện qua hành động thì ít lắm.

Một Giáo xứ toàn tòng Công Giáo, tức là 100% người theo đạo, nhưng nếu giữ đạo được khoảng 60% là tốt lắm rồi, con sống đạo đúng nghĩa, có lẽ đếm trên đầu ngón tay!

Đây là một thực trạng thật tại Việt Nam chúng ta.

Đến đây, xin được kể một câu chuyện có thật của một vị linh mục đã trọng tuổi, ngài sống ở Mỹ. Sau 50 năm, ngài mới trở về Việt Nam lần đầu, và nhân dịp gặp gỡ chúng tôi, ngài kể: “Cách đây 50 năm, tại đất nước Mỹ, người ta có lòng sùng đạo. Nhà thờ được xây cất rất nhiều, các cuộc rước linh đình, lòng sùng đạo rất tốt. Nhìn chung, tình hình giữ đạo rất giống Việt Nam hiện nay.

Tuy nhiên, vào thời điểm này, sau 50 năm, nhiều nhà thờ đã không còn có người đi lễ nữa. Nhiều dòng tu cũng vắng dần các ơn gọi trẻ. Đã có những nhà thờ và dòng tu phải bán đi vì không có tiền đóng thuế. Các linh mục phải đi theo họ đến những nơi du lịch để giải tội và dâng lễ. Nhiều Chủng Viện gom lại thành một, mà số lượng chủng sinh vẫn chỉ đếm trên đầu ngón tay. Nếu có ai siêng đi lễ thì đôi khi nhận được những lời dè bửu và cho là bất thường. Những người được coi bình thường là cả đời người ta đến nhà thờ 3 lần: một lần Rửa Tội; lần khác là lễ cưới; và lần cuối cùng là chết. Trong ba lần đó, hai lần thụ động, tức là lúc Rửa Tội và lúc chết, còn một lần chủ động là lễ cưới. Điều đáng nói là dân Mỹ coi đây như là một thủ tục phải có trong đời mà thôi, và họ cho rằng mình thuộc thành phần bình thường”.

Sau đó, ngài đưa ra nhận xét: “Nếu Giáo Hội Việt Nam không coi đó là kinh nghiệm cho chính mình, không tập trú vào việc đào tạo lương tâm, không có những hoạt động phù hợp… nhằm giúp cho con cái mình sống đạo chứ không chỉ giữ đạo, thì tình trạng của Giáo Hội Mỹ cũng là hình ảnh, thực trạng của Giáo Hội chúng ta trong tương lai???”.

Đến đây, xin để lại nơi bạn và tôi câu hỏi: “Bấy lâu nay, chúng ta đã thực sự sống đạo hay chỉ là giữ đạo vì sợ tội, sợ mất linh hồn, sợ mất danh dự, sợ bị mang tiếng…?”; “Phải chăng chúng ta đã, đang an tâm với những thành quả về số lượng, mà quên đi, hay không cú tâm đến chất lượng tâm linh?”. Tưởng cũng nên nói thêm: giữ đạo là điều tốt, nhưng sống đạo mới là người trưởng thành.

Mong sao mỗi chúng ta cố gắng đan kết giữa việc giữ và sống đạo trong đời sống, để: “Vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắngcủa con người ngày nay, nhất là của những người nghèo và những ai đau khổ, cũng là vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của các môn đệ Chúa Kitô, và không có gì thực sự là của con người mà lại không gieo âm hưởng trong lòng họ” (Thánh Công Đồng Vaticanô II, Hiến chế Gaudium et Spes, số 1).

Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con một đức tin mạnh mẽ và một lòng mến dồi dào. Khi chúng con nói được rằng chúng con tin vào Chúa và thực thi giới răn của Ngài, thì chúng con biết sống những điều đó bằng một đời sống cụ thể. Để cuộc sống của chúng con là một chứng từ sống động cho mọi người nhận biết Chúa. Amen.

9.Yêu và giữ lời–Huệ Minh

Mở lại những trang sách Cựu Ước, ta thấy Đức Chúa với ông Giôsuê, Ngài phán: Đừng sợ, vì Thiên Chúa ở cùng ngươi. Với Ghiđêon, Ngài bảo: Hỡi người dững cảm, Thiên Chúa ở cùng ngươi. Với Maisen, Ngài nói: Ta luôn ở với ngươi. Với Mẹ Maria, thiên thần loan báo: Thiên Chúa ở cùng bà, bà có phúc lạ hơn mọi phụ nữ và Giêsu con lòng Bà gồm phúc lạ. Và ngày hôm nay, với các môn đệ, Ngài đã hứa: Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế.

Đức Giêsu phục sinh không chỉ hiện ra một đôi lần, Ngài muốn ở mãi bên chúng ta cho đến tận thế. Một sự hiện diện hai chiều, thâm sâu và mới mẻ: “Anh em ở trong Thầy và Thầy ở trong anh em” (c.20) Một sự hiện diện đem lại sức sống dồi dào: “Vì Thầy sống và anh em cũng sẽ sống” (c.19).

Hẳn ta còn nhớ khi các môn đệ đánh cá ở biển hồ Tibêriade, suốt đêm vất vả mà chẳng bắt được một con cá nào, nhưng vâng lời Chúa, các ông đã thả lưới và lập tức các ông có được một mẻ cá ngoài sự mong muốn của mình. Khi gặp phải sóng gió, nhưng với uy quyền của Chúa, thì lập tức sóng liền yên và biển liền lặng. Giữa tiệc cưới tại Cana, mọi người đang lúng túng vì thiếu rượu, Chúa Giêsu đã làm phép lại cho nước lã biến thành rượu ngon. Giữa hoang địa cằn cỗi, Ngài đã làm phép lạ cho bánh hóa nhiều, để nuôi sống đám đông dân chúng đang đói mệt. Bà góa thành Naim, cũng như hai chị em Martha và Maria, đang than khóc tuyệt vọng vì người thân yêu của mình không còn nữa, nhưng Chúa đã làm phép lạ cho người đã chết được sống lại, hầu xoa dịu nỗi đớn đau tang tóc.

Cũng như hai môn đệ trên đường đi Emmaus, Chúa ở bên cạnh chúng ta, nhưng chúng ta lại chẳng nhận ra Ngài. Nhất là trong những giây phút buồn sầu và thất vọng, chúng ta cảm thấy Thiên Chúa dường như vắng bóng và chẳng đoái hoài đến những lời chúng ta kêu xin. Nhưng thật ra, đó lại là những giây phút Ngài ở gần chúng ta hơn bao giờ hết.

Chúa Giêsu hứa: “Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi. Đó là Thần Khí sự thật” (cc.16-17a). Đức Giêsu thực hiện vai trò trung gian bên Chúa Cha để Chúa Cha ban Thánh Thần cho những kẻ thuộc về Người, và cộng đoàn những kẻ thuộc về Đức Giêsu sẽ lãnh nhận được Thánh Thần nhờ Người.

Thánh Thần được gọi là Đấng Bảo Trợ. Đấng Bảo Trợ đến sẽ thực hiện một vai trò kép: trong cộng đoàn môn đệ và trong cuộc đối diện của cộng đoàn với thế gian. Bên trong cộng đoàn, Người dạy dỗ các đồ đệ mọi điều và làm cho các đồ đệ nhớ lại mọi điều Đức Giêsu đã truyền dạy (14, 26). Người dẫn họ đến sự thật toàn vẹn (16,13). Người làm chứng về Đức Giêsu trước các mô đệ (15, 26). Người tôn vinh Đức Giêsu và loan báo cho các đồ đệ những gì là của Đức Giêsu (16, 14). Và rồi trong cuộc đối diện của cộng đoàn với thế gian, Người soi sáng hướng dẫn các đồ đệ và làm cho các đồ đệ biết rằng thế gian sai lầm (16,9-11).

Trang Tin Mừng hôm nay trích trong bài diễn từ giã biệt của Chúa Giêsu trước cuộc khổ nạn phục sinh và lên trời với Chúa Cha. Trong thời gian vắng mặt, Chúa Giêsu hứa sẽ ban cho các môn đệ một Đấng Bảo Trợ khác là Chúa Thánh Thần để ở với các ông luôn mãi. Người cũng hứa sẽ không bỏ mặc các ông mồ côi, nhưng sẽ hiện diện bên các ông cách thiêng liêng.

Hơn hai ngàn năm qua, sức sống được Chúa Thánh Thần thông ban cho các môn đệ đã tràn ngập thế giới, đã trở thành lẽ sống của không biết bao nhiêu người. Chính nhờ sức sống ấy mà các tín hữu Kitô tìm thấy ý nghĩa của cuộc sống và sống đúng ơn gọi làm người của mình. Sống công bình, sống bác ái, sống phục vụ, sống quên mình không phải là độc quyền của người Kitô giáo. Tôn giáo nào cũng đề cao những giá trị ấy; giới răn yêu thương cũng không phải là giới răn riêng của các tín hữu Kitô chúng ta. Thế nhưng Chúa Giêsu đã ban bố giới răn ấy như một giới răn mới mẻ và là riêng của Ngài, bởi vì Ngài ban chính sức sống và tình yêu của Ngài cho các tín hữu để họ yêu thương bằng chính tình yêu của Ngài.

Lời Chúa hôm nay cũng căn dặn chúng ta: “Nếu anh em yêu mến Thầy, thì hãy giữ lời Thầy”. Như thế, tuân giữ giới răn Chúa là dấu chỉ cho lòng yêu mến Chúa. Tuân giữ giới răn Chúa còn là dấu chỉ sự trung tín và chu toàn bổn phận của Chúa giữa thế gian. Không thể nói rằng mình yêu mến Chúa mà lại không dám thực thi lời Chúa. Nếu chúng ta nói yêu mến Chúa mà không dám sống đạo và giữ đạo, đó chỉ là sự giả tạo vì Chúa đã từng trách rằng: “Dân này chỉ thờ Ta bằng môi bằng miệng mà lòng chúng lại xa cách Ta”.

Khi sắp lìa bỏ thế gian và các môn đệ là đoàn con thân tín để về cùng Chúa Cha, Ngài nhắn nhủ họ những lời tâm huyết: “Hỡi anh em là những người con bé nhỏ của Thầy, Thầy còn ở lại với anh em một ít lâu nữa thôi…. Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm nầy: là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13, 33-35)

Khi yêu ai, chúng ta cảm thấy được những gì làm vui lòng người chúng ta yêu và không có gì cưỡng bức chúng ta tự nhiên làm tất cả để người yêu được vui, được hạnh phúc. Yêu mến Chúa cũng vậy. Yêu mến Chúa là sống theo ý Chúa muốn, là giữ các giới răn của Chúa, là thực thi ý Chúa muốn, là giữ các giới răn của Chúa, là thực thi ý muốn của Chúa trên cuộc sống chúng ta và trên cuộc sống của xã hội loài người.

Chúa Giêsu đã xác định: “Ai giữ các giới răn của Thầy sẽ được Cha Thầy yêu mến. Cha và Thầy sẽ yêu mến người ấy và sẽ đến và ở trong người ấy”. Giữ các giới răn là ta ở với Chúa và Chúa ở với ta, là lưu lại trong tình yêu của Chúa. Kitô giáo là đạo của tình yêu: yêu Chúa và yêu người. Tình yêu sẽ chắp cho chúng ta đôi cánh để bay lên cao. Vậy mà có nhiều người lại coi Kitô giáo như những giới răn cấm kỵ và trừng phạt, như những gông cùm tròng vào cổ hay những gánh nặng đèn lên vai. Vì vậy cuộc sống đạo của họ trở thành một bài toán khô khan và nghèo nạn, nhiều khi quá máy móc. Họ bóp méo đạo yêu thương thành đạo sợ hãi. Đạo sợ hãi làm người ta mất nhiệt tình và cởi mở, mất nét vui tươi trên khuôn mặt của những người con cái Thiên Chúa.

Lòng yêu mến Chúa thực đòi ta giữ giới răn của Người. Điều đó rất tự nhiên. Bởi khi yêu nhau, người ta sẵn sàng chấp nhận gian khổ, chấp nhận hy sinh vì nhau. Người ta cũng sẵn sàng làm theo ý của nhau nếu đó là những ý muốn chính đáng. Điều cần nói ở đây là việc ta tuân giữ giới răn của Thiên Chúa chẳng đem lại lợi lộc gì cho Người, nhưng đem lại lợi ích cho chính chúng ta. Bởi lẽ, lề luật của Chúa là một hàng rào cần thiết để bảo vệ ta được an toàn và khỏi rơi xuống vực thẳm tội lỗi. Đồng thời chúng cũng là những bảng chỉ đường giúp ta đi đúng con đường dẫn đến sự sống, đến hạnh phúc. Biết như vậy nhưng dường như ta vẫn cảm thấy khó khăn và ngại ngùng khi phải tuân giữ, phải thực thi các giới răn của Người.

Tuân hứa giới răn Chúa không chỉ dừng lại trên môi miệng mà còn là một dấn thân để ý Chúa được thể diện trong cuộc đời chúng ta. Như Chúa Giêsu, ngài đã vâng phục thánh ý Chúa Cha cho đến nỗi bằng lòng chịu chết và chết trên cây thập tự. Người Kitô hữu cũng phải vâng phục theo giáo huấn của Chúa, cho dẫu có phải chịu thiệt thòi, mất mát hay phải hy sinh cả tính mạng vì lòng yêu mến Chúa.

SỰ SỐNG MỚI

10:Chúa Nhật 6 Phục Sinh năm A : Ga 14, 15-21 .

Đã yêu thì chỉ còn có một điều là mong sống thật nhiều cho người mình yêu, cụ thể là làm những gì mà người yêu mong đợi. 

Suy niệm

Một người kia nằm mơ gặp một thiên thần đi bộ xuống phố. Một tay ngài cầm bó đuốc, tay kia cầm một xô nước. Anh ta liền hỏi thiên thần: “Ngài đi xuống phố kia làm chi vậy ?”. Thiên thần đáp: “Ta được sai đến để tìm xem ai là người có đức tin và có lòng mến Chúa thực sự”.

Anh ta hỏi tiếp: “Sao Ngài lại phải cầm theo bó đuốc và xô nước?” Thiên thần đáp: “Ta muốn dùng bó đuốc để thiêu hủy các tòa nhà trên thiên đàng, và dùng xô nước để dập tắt ngọn lửa dưới hỏa ngục”. Anh lại hỏi: “Nhưng tại sao Ngài lại phải làm như thế ?”

Thiên thần trả lời: “Để biết ai thực sự có đức tin và lòng mến Chúa. Một người có đức tin thực sự thì sẽ tuân giữ các giới răn, cho dù ta có phá hủy hy vọng sau này của họ là lên thiên đàng, và phá hủy nỗi sợ của họ sau này sẽ bị sa hỏa ngục đi nữa”.

Câu chuyện giấc mơ trên cho ta hiểu thế nào là đức tin và lòng mến Chúa thực sự. Lòng mến Chúa đích thực thì không đặt ra vấn đề thiên đàng hay hỏa ngục, vì như thế thì động lực của tình yêu mến không còn tinh ròng nữa. Đối với thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu, được yêu Chúa là đủ rồi, dù ở đâu, làm gì, đi đâu, ngay cả khi phải ở trong hỏa ngục mà vẫn được yêu Chúa thì cũng đủ cho chị rồi.

Ta chỉ lo âu sợ hãi khi mình không có tình yêu. Khi đã có tình yêu thì lo âu sợ hãi không còn, vì chỉ còn lo sống cho tình yêu, như Harry Emerson đã phát biểu như sau: “Sợ hãi thì đe dọa, còn tình yêu lại gọi mời. Sợ hãi thì cầm tù, còn tình yêu lại giải phóng. Sợ hãi thì chua chát, còn tình yêu lại ngọt ngào. Sợ hãi thì gây ra thương tích, còn tình yêu lại chữa lành. Sợ hãi thì luôn lẩn tránh còn tình yêu lại hiện diện”.

Đã yêu thì chỉ còn có một điều là mong sống thật nhiều cho người mình yêu, cụ thể là làm những gì mà người yêu mong đợi. Đó cũng chỉ là một tình yêu đáp trả, vì Chúa đã yêu thương chúng ta trước khi chúng ta yêu mến Người. Và Chúa Giêsu đã tỏ lộ ra cho các môn đệ biết: “Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy”. Hay nói một cách khác phổ quát cho tất cả mọi người: Ai có và giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy”.

Bài Phúc Âm hôm nay là một lời an ủi của Chúa Giêsu dành cho các môn đệ, khi Ngài sắp lìa bỏ thế gian mà về cùng Chúa Cha. Lời an ủi này không chỉ là một sự động viên khích lệ, mà là một lời hứa chắc chắn Người không để các ông mồ côi, Người sẽ xin Chúa Cha ban cho các môn đệ một Đấng Bảo Trợ là Chúa Thánh Thần, Người là Thần Khí Sự Thật, sẽ đến ở giữa các ông và trong các ông. Nhưng điều quan trọng là tình yêu mến trong lòng họ qua việc giữ lệnh truyền của Thầy. Tình yêu ấy làm cho Chúa Cha thương mến họ, cả Ba Ngôi đều ở trong họ, làm cho sự sống linh thiêng ngập tràn trên họ, và chính Chúa sẽ tỏ mình cho họ, khiến họ vững vàng trước mọi thử thách gian nan.   

Mùa Phục sinh nhắc nhở ta nhìn lại sự sống của Chúa trong mình: “Anh em ở trong Thầy và Thầy ở trong anh em”. Kitô hữu tự bản chất là người đã được phục sinh, nhờ thông hiệp với Ðấng đang sống là Ðức Kitô. Sự thông hiệp này làm nên một sức sống mới và một kinh thiêng liêng mà thánh Phaolô đã nói lên: “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Ðức Kitô sống trong tôi” (Gl 2,20). Quả thật, sự sống của Chúa bắt đầu bừng lên khi ta bắt đầu sống yêu thương. Ngài sẽ tỏ mình cho ta khi ta dám cúi xuống tỏ tình thương với mọi người.

Thực tế cho thấy, lắm khi ta sống èo uột, khô khan, cằn cỗi, tầm thường, chỉ vì không dám sống giới răn yêu thương, không dám xả thân phục vụ anh chị em, chỉ quanh quẩn với bản thân, và loay hoay với những gì mình muốn để được an nhàn thư thái. Còn đời sống đạo thì nhiều khi chỉ lo giữ những điều tối thiểu và vừa đủ để được lên thiên đàng. Nếu như vậy chỉ là một thứ đạo thực dụng, như chuyện trao đổi ở đời, và như vậy ta xem Đức Kitô cũng chỉ là một vị thần đóng vai trò thưởng phạt, chẳng khác nào chuyện thần thoại Hy lạp.

Không lạ gì mà những người lương dân thấy một số người có đạo mà không thấy có Chúa. Điều này có nguy cơ trở thành một thứ đạo mà con người dựng nên Thiên Chúa chứ không phải Thiên Chúa dựng nên con người. Làm sao cho người khác nhận ra Đức Kitô đang sống, đang hành động trong ta, đang có mặt ngay trong cuộc sống hôm nay giữa mọi người? Cuộc đời chúng ta tùy thuộc hoàn toàn vào Thiên Chúa, nhưng sự hiện diện của Đức Kitô phục sinh lại tùy thuộc vào thái độ sống của chúng ta: một thái độ mở ra, bao dung, đón nhận, vui tươi và nhiệt tình với mọi người, đem lại tự do và bình an cho nhau.

Cầu nguyện

Lạy Cha!
Ki-tô giáo là đạo Đấng đã sống lại,
nên Ki-tô hữu là người đã phục sinh,
đã đón nhận sự sống của Thánh Linh,
nhờ chính Đức Ki-tô hiến thân mình.

Sự sống lại là hồng ân Chúa ban,
nhưng con phải tuân giữ các luật điều,
và phải làm tất cả vì tình yêu,
không so đo hay tính toán chi nhiều,
không phàn nàn vì những điều con thiếu,
không quan trọng mình có được bao nhiêu.

Yêu mến đâu phải là tình cảm tự nhiên,
được đo lường theo mối dây thân thiện,
nhưng biểu hiện bằng hành động dấn thân,
với tự do và tinh thần quả cảm,
luôn dám sống dám yêu và dám làm,
dám đi ngược với lối sống thế gian.  

Đức tin không hành động, đức tin chết,
tình yêu cũng không chỉ ở trong lòng,
nhưng còn là sáng lên trong hành động,
khơi sâu và mở rộng sự hiệp thông.

Cho con nghe được tiếng Chúa gọi mời,
để con biết sống một cuộc đời phấn khởi,
biết nhiệt tâm đem an hòa cho thế giới,
đem niềm vui thương mến đến mọi nơi.

Xin cho con đừng ngồi đó để chờ thời,
nhưng ra khơi tạo nên nguồn sống mới,
cho bao người còn đang sống chơi vơi,
đang khốn khó nguy nan giữa biển đời.

Xin cho con ghi nhớ lời Chúa phán,
biết thực thi những điều mà Chúa dạy,
để nêu cao một tình mến mỗi ngày,
cho tới lúc được xum vầy bên Chúa. Amen.

Lm. Thái Nguyên

*Xin bấm vào đọc Kinnh Phụng Vụ.

*Xin bấm vào nghe chia sẽ Lời Chúa.

Leave a Reply

Fill in your details below or click an icon to log in:

WordPress.com Logo

You are commenting using your WordPress.com account. Log Out /  Change )

Facebook photo

You are commenting using your Facebook account. Log Out /  Change )

Connecting to %s

%d bloggers like this: